RE: Dương Thu Hương
-
24.06.2008 06:25:54
Tiểu Thuyết Vô Đề
Chương 1
Suốt đêm tôi nghe gió hú ngoài vực cô hồn.
Tiếng rên rỉ triền miên, tiếng nức nở, đôi lúc tiếng rít hỗn hào như ngựa cái hí ngày động cỡn. Mái lán rung bần bật, những ống tre nứt thổi sáo từng hồi, tấu lên giai điệu thê lương của đám tang vùng thôn dã. Cây đèn chai của chúng tôi phập phù như muốn tắt. Tôi thò cổ khỏi chăn, thổi tắt ngọn lửa, mong bóng đêm sẽ bịt hết mọi giác quan.
- ... cành cạch... cành cạch... cành cạch...
Một cành khô đập hoài vào vách liếp... Tôi vẫn không ngủ được. Tiếng gió bên ngoài cuồng dại như tiếng vật vã của ác thú!
"Chị em ơi...
Tôi lẩm nhẩm khấn: "Chị em sống khôn chết thiêng, xin đừng ám ảnh chúng tôi. Xin các hồn ma phù hộ cho chúng tôi cứng cáp chân tay, sáng láng đầu óc, đánh đâu được đó... Bao giờ thắng trận, đất nước an bình, chúng tôi nguyện sẽ rước chị em về quê cha đất tổ..." Khấn xong, tôi trùm chăn kín đầu, cố quên tiếng gió. Nhưng gió vẫn luồn qua tấm chăn, đuổi theo... vực cô hồn.
***
Cách đây nửa tháng, chúng tôi đã chôn sáu cô gái!
Buổi sáng ấy, tôi cùng tiểu đội của Lành đi kiếm măng.
Khoảng non trưa, cả bọn mò tới vực cô hồn. Chợt thấy từng đàn diều hâu chấp chới, con bay lên, con bổ xuống, kêu náo loạn. Lành dừng lại, hỉnh mũi đánh hơi:
- Có con vật não chết gần đây. Thối quá!...
Thối thật! Mùi thối mỗi lúc mỗi nồng nặc hơn. Chúng tôi định bỏ đi nhưng chính Lành cản lại:
- Biết đâu chẳng phải là xác người? Mà nhỡ là người bên...
Tôi bảo:
- Ờ, thử xem sao...
Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!
Đám dòi lúc nhúc trong các vết thương, trong các hốc mắt, hốc miệng. Những con dòi trắng nhở, béo tròn. Chúng tít trên các tử thi, ngoi lội, trồi lên trụt xuống, vẻ viên mãn của loài dòi bọ.
Một cậu lính nhăn mũi:
- Tiên sư loài dòi bọ, không ở đâu không có chúng...
Tôi bảo anh em:
- Đào huyệt đi.
Lũ diều hâu lượn vòng trên đầu chúng tôi kêu la như là ăn cướp. Trời nóng, không gian tù đọng quấn đầy mùi tử thi.
Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt lính. Đào huyệt xong, chúng tôi nhặt nhạnh xác chết, giành giật với lũ diều hâu và bọn dòi từng mảnh thịt rữa của các cô gái xấu số, cho tất cả vào tăng. Túi áo các cô không có giấy tờ chỉ có mấy sợi len xanh đỏ và vài miếng cau khô. Chắc lén để buộc tóc và cau để đánh răng. Các cô vẫn nuôi hy vọng ngày nào đó được cười với chàng trai của mình...
Khoảng đất ở vực hẹp nên chúng tôi chôn sáu ngôi mộ thành vòng tròn. Chôn cất xong, quay lại đám cỏ vẫn thấy dòi vón thành cục. Lành vơ một ôm lá khô ném vào rồi châm lửa đốt. Dòi nổ lép bép... lép bép.. Chúng tôi đứng quây đống lửa, nhễ nhại mồ hôi, người nào người nấy rã rời.
Ném lại những gùi măng, chúng tôi trở về. Không rau, không măng, cơm độn sắn khô với muối vằm xả ớt... Đời lính mà! Tất cả sẽ qua... Vậy mà những ám ảnh không chịu qua.
***
Nếu tác phẩm là tiếng nói chân thật của nhà văn, và nhà văn có sứ mạng nói lên khát vọng của thế hệ mình sống thì người cầm bút sao lại viết về (bọn thám báo) tức toán biệt kích của Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 Bộ Tổng Tham Mưu của Việt Nam Cộng Hòa đã cắt vú và xâm phạm thân thể người phụ nữ CS . Và bà Dương Thu Hương nghĩ gì, biết gì mà viết như thế... hữu nhân vô mục? Bởi thế, Thần Báo đã viết bài phản biện lại Bài Trung Thành - từ khóa của Dương Thu Hương, nhưng bà trả lời Thần Báo một cách sai lạc. Các bài đã viết như sau: * * * Phản biện: Trung Thành, Dương Thu Hương Thần Báo
Nhân đọc bài viết “
Trung thành - từ khóa”
của Dương Thu Hương trên Đàn Chim Việt ngày 4 tháng 4 năm 2008, theo tác giả, đây là bài đọc trong hội nghị quốc tế của các nhà văn tại Lyon 2008… Thần Báo tôi xin phép để thử đưa ra một nhận xét trước một “loạn kiến” nói theo ngôn ngữ thời đại Hồ Hữu Tường tiên sinh năm xưa. Ông Tường bị bệnh trong trại cải tạo Xuyên Mộc, rồi được gia đình xin về Sài Gòn chữa trị và chết. Cũng tại nhà tù Xuyên Mộc là nơi nhà văn Nguyễn Mạnh Côn với tác phẩm “Hòa Bình, Nghĩ Gì và Làm Gì” đã chết thê thảm, và cũng là nơi nhốt nhà văn Duyên Anh – theo lời của ông MC Nguyễn Ngọc Ngạn, thì Duyên Anh lúc còn sống có thời cộng tác với công ty Thúy Nga Paris, làm một tape nhạc gây sóng gió nhưng chưa thành hình.
Và cách nay chục năm khi còn làm việc trong thư viện trường đại học Hoa Kỳ nơi đây, tôi được người đồng nghiệp nhờ đọc để giới thiệu tác phẩm Paradise of the Blind: Thiên Đàng Mù của Dương Thu Hương, với yêu cầu đồng ý nhận sách này/ hay không đặt vào hệ thống thư viện? Đọc Paradise of the Blind làm tôi vui sướng và tỏ lòng khâm phục tinh thần và hoạt động của tác gỉa trong tiến trình đấu tranh cho tự do dân chủ Việt Nam hôm nay, mặc dù Dương Thu Hương và tôi có đứng khác chiến tuyến trong thời chiến trước đây: “A rich, sensuous journey through a Vietnam rarely seen by outsiders, Paradise of the Blind tells the story of the three women fighting to mainatain their dignity under a government that discards old values and tears families apart. Hang, a young girls growing into womanhood in the Hanoi slums, finally learns the truth about her father's disappearnce and death during the era of government imposed land reform. Meanswhile, Hang's self sacrificing mother, a struggling street vendor, watches helplessly as her life is shattered by the political machinations of her own brother. And the mysterious Aunt Tam, who has accumulated wealth and bitterness in equal measure, fights for her niece's loyalty -- and future. Long banned in its own country, this moving novel captures the hunger, pride, and endurance of ordinary people in a land of intoxicating beauty... as it provides a rare, insightful look into a changing Vietnam.”
Chúng tôi không thể hiểu vì sao bài viết như “Trung Thành – từ khóa” mà Dương Thu Hương của Paradise of the Blind lại đem ra hội nghị quốc tế để sánh với nhiều bài cự phách của nhân loại. Không hiểu các vị học gỉa uyên bác khi xem bài này mà bị xếp chung sẽ nghĩ sao. Dù cách nào đi nữa bài viết cũng phải sạch sẽ về ngôn từ và cú pháp, chữ dùng phải coi trọng thế giới văn chương chữ nghĩa. Bài này văn phong không được một điểm, là chuyện “chẳng đặng đừng,” cho nên tôi phải lên tiếng mà thôi.
Qua đề tài quả thật lớn, nhưng lại vỏn vẹn khoảng hai trang giấy làm sao có thể gói ghém cả một chuỗi dài lịch sử. Xuyên qua nội dung, người ta thấy đề tài này không được thảo luận thẳng thắn, mà chỉ gồm những lời thóa mạ đức Khổng Tử với nguyên lý Trung Thành bằng một cách hòan toàn chủ quan. Thậm chí còn thóa mạ “cộng đồng hải ngoại” với những ngôn ngữ thiếu trầm tĩnh, và đầy tính chất cá nhân, dân tộc Việt Nam sẽ gặt hái được cái gì trên chính trường văn hóa quốc tế? Một sự chia rẽ chăng, có lẽ là như vậy.
Tự chúng ta không giới hạn được ngôn ngữ dù bênh vực cho ai chăng nữa. Vừa vào bài bà Hương tuyên bố: “Trung thành, ấy là từ quan trọng nhất được xác lập trong các triều đại phương Đông. Từ thuở những đứa bé vừa bập bẹ nói, chúng đã được dạy rằng nghĩa vụ quan trọng nhất của kiếp sinh tồn là phải “trung với vua”. Ý niệm này được tập nhiễm cùng một lần với sữa mẹ. Tác giả sáng giá nhất của ý niệm này phải kể đến Khổng tử, ngự lâm quân vĩ đại của chế độ phong kiến. Với từ “Trung thành”, ông ta đã tạo nên một thành lũy gần như bất khả xâm phạm cho xã hội phong kiến suốt mấy ngàn năm, dẫu rằng chính ông ta, để hành nghề thuyết khách, đã chạy như chuột qua các biên thùy và đổi thay các lãnh chúa tiểu quốc như gái hồng lâu thay quần áo.”
Qua ngôn ngữ này chúng ta đã lượng được thái độ cũng như tổ chức chính trị sau lưng bà Hương, nếu có. Ngôn ngữ thóa mạ một vị “Vạn Thế Sư Biểu,” thực tế đã làm gỉam giá trị của mỗi câu nói. Nó không giúp cho người nghe, đọc thẩm định được nội dung. Kẻ thù của Dương Thu Hương “Khổng Tử, Mai Chí… và đảng Cộng Sản” không nghe thấy, mà chỉ thấy có bạn đọc bà Hương cần thuyết được nghe những “mỹ từ: thằng đàn ông.” Có số người cho rằng những loại người này không cần phải tôn trọng vì họ đều là Cộng Sản nên ta cứ mặc tình mà thóa mạ, bằng những ngôn từ nào cũng được. Nhưng nếu chúng ta “cứ giống họ” thiếu lễ nghĩa, thiếu liêm sỉ mà “hãm huyết phun người” thì chính nghĩa dân tộc Việt Nam có còn biên giới nào khác biệt không? Kẻ tán đồng quan điểm với bà Hương sẽ được kính trọng, ngược với quan điểm của bà Hương sẽ bị khinh bỉ? Như thế thì đối lập chính trị, tự do dân chủ, nhân quyền mặc nhiên không có [!]
Bà Dương Thu Hương qua “uẩn ức” hay mặc cảm phức tạp đã xếp đức Khổng Tử vào vị trí “ngự lâm quân,” chấp kích lang, hay chú thập tức lính hầu giữ ngựa. Thực ra bà Hương không hiểu, không am tường về Khổng học và phương thức đấu tranh chính trị của Ngài. Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, chuyện đấu tranh chính trị đã hy hữu xảy ra với những bộ óc siêu việt và giàu tính sáng tạo như Không Tử, Mạnh Tử... họ mới tránh được lưỡi hái tử thần của Pháp Lệnh và cường quyền. Xin bà Hương vui lòng cho biết ý kiến.
Có thể nói rằng, người đầu tiên thành công trong vai trò đấu tranh chính trị này, tức là họ sửa đổi, tu chỉnh, và làm sáng tỏ nhiệm vụ chính trị trong thời phong kiến Trung Quốc, chính là Đức Khổng Tử. Và theo cách đấu tranh chính trị này là ông không trực tiếp đối đầu với chế độ, mà sắp xếp những tinh hoa cai trị ngày trước, và tổng hợp lại thành một hệ thống nâng lên thành cái "Đạo": Đạo vua tôi, Đạo cha con, Đạo vợ chồng... và phân tích phê bình những thái độ, những hành động của người quân tử và tiểu nhân. Bởi thế, Khổng Tử đã trở thành một bậc thày văn hóa chính trị, ông xây dựng lại đạo đức nhân tính làm nền tảng chính trị cho chế độ, giúp cho toàn dân thoát nạn khủng hoảng chính trị. "Trung với vua" là nguyên tắc xây dựng, và chỉ đúng với những bậc minh quân thánh chúa như Vua Nghiêu Vua Thuấn, chớ không “trung” với bạo chúa như (vua) Kiệt, (vua) Trụ.
Vào thời đại nông nghiệp và sinh hoạt chính trị quân chủ -- vua như trời con, thế thiên hành đạo, vua đứng trên và đứng ngoài luật pháp mà phán xuống, lệnh của vua là lệnh của trời, ai trái ý trời, (cũng như trái ý bác đảng ngày nay) đều bị công an mật vụ mang ra bờ đìa cho mò tôm. Đó là pháp lệnh (cũng như pháp lệnh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay mà thôi). Pháp lệnh là lưỡi hái tử thần sắc bén, chém đứt lìa đầu người dân mà khi bị chém còn chưa biết rằng mình đã chết!
Nhìn lại từ cái thuở hồng hoang, hay con người mới biết “kết xã,” chưa có tiền tệ, chưa có chữ viết, chưa có luật lệ… thì những giao tiếp, những trao đổi hay liên hệ thường dựa theo bản năng, thỏa thuận, giao ước với nhau từ hai phía, hai người, hai nhóm người, hoặc hai gia đình, hai quốc gia… Lối giao tiếp, hay mối liên hệ ấy dần dà biến thành thói quen, thành ra cái lệ, mà người ta gọi là tục lệ.
Tục lệ được bổ túc, biến cải cho thích hợp với nếp sống và phát triển của mỗi dân tộc, và trải qua bao ngàn năm. Người sống chung trong xã hội, đại đa số tuân theo, noi theo luật lệ theo thói quen của lớp tiền nhân thuở trước… lấy đó mà cư xử. Đang khi thiểu số không tuân giữ điều lệ, và trong giao tiếp có bội ước, bội tín, lật lọng… và hành động ngang ngược của thiểu số ấy đã khiến cho số đông tìm cách giải quyết, là phải chọn ra một Trưởng Lão, người sống lâu và có nhiều kinh nghiệm, uy tín trong thôn làng/ hay bộ lạc mà phán quan xét xử.
Những vụ xét xử như thế đã dẫn tới kết quả là có bên đúng, bên sai, bên có tội, bên vô tội… dù oan hay ưng… để ngăn ngừa tội lỗi, người ta đặt ra hình phạt cho kẻ có tội, để làm gương cho những người khác tránh phạm. Từ đó mà có luật lệ ra đời.
Vậy thì trước khi có hình luật khai sinh con người đã có tục lệ, tức là những luật lệ dựa trên căn bản của sự thỏa thuận, thỏa hiệp, để cùng nhau tồn tại và phát triển của hai người, hai nhóm. Luật pháp từ đó là cách gọi chung của hình luật và tục lệ. Cả hai hình thức luật pháp này được đưa vào tổ chức cai trị để giúp cho xã hội con người phát triển ổn định và điều hòa.
Các dân tộc khắp nơi trên thế giới, khi thành lập quốc gia thì tục lệ đã giữ vai trò quan trọng và thiết yếu trong việc điều hòa xã hội, tổ chức cai trị tức triều đình áp dụng hình luật để giữ gìn an ninh, trật tự xã hội. Hai hình thức của luật pháp. Tục Lệ có nhiệm vụ giữ gìn thuần phong mỹ tục, vun bồi luân lý đạo đức. Hình Luật giữ nhiệm vụ trừng phạt những kẻ thác loạn, vi phạm hệ thống giá trị của xã hội và con người.
Theo dòng thời gian, các vua quan của nền quân chủ bỏ quên vai trò của Luật Pháp và Tục Lệ, và chỉ xử dụng hình thức luật pháp, đó là hình luật. Hơn thế nữa họ muốn phá bỏ nhiệm vụ trong sáng của hình luật ban đầu -- bảo vệ hệ thống giá trị của xã hội và con người. Họ xử dụng hình luật như một thứ vũ khí để tiêu diệt hay bịt miệng những ai có can đảm phê phán, chống đối hành động độc tài độc quyền của họ.
Bởi thế trong suốt 3500 năm lịch sử trong thời đại quân chủ phong kiến thì người dân đã bị tròng lên đầu một thứ luật pháp duy nhất, là hình luật, là pháp lệnh khắc nghiệt và đầy dẫy bất công.
Khoảng 500 năm trước công nguyên, Á Châu có Khổng Tử -- triết gia đã nhìn ra sự độc đoán, phi lý của pháp lệnh, nên ông đã thu góp lượm nhặt những điều tốt từ pháp luật, tục lệ mà ghi chép lại thành ra quyển Thượng Thư, là một trong những cuốn của chương trình Ngũ Kinh mà ông biên soạn, nhằm giảm bớt độc tài, độc đoán dã man của các tầng lớp vua chúa quan lại cai trị, tức những nhà lãnh đạo chính trị thời ấy.
Cũng thế, vào khoảng năm 384-322 trước Tây lịch, triết gia Hy Lạp Aristotle cũng nhìn thấy sự phi lý của hình luật và nặng về pháp lệnh do giai cấp cai trị đặt ra. Ông cũng đã dựa trên luật pháp tục lệ để đưa ra một ý niệm chính trị, đặc biệt là sự liên hệ thỏa hiệp của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, được người đời sau biết đến qua cái tên Lý Thuyết Khế Ước. Lý thuyết này xác nhận giai cấp cai trị là chính quyền, và muốn được chính danh, phải dựa trên Giao Kèo, trên sự Đồng Thuận của người dân bị trị.
Lý thuyết này cũng được Thomas Hobbes và John Locke khai triển vào cuối thế kỷ 17 ở Anh, và Jean Jacques Rousseau ở Pháp và cuối thế kỷ 18, với những nguyên tắc của Lý Thuyết Khế Ước là:
-
Sự chấp thuận, thỏa thuận phải là giao ước nền tảng của sự cai trị
-
Tối quyền của cá nhân đối với xã hội văn minh, và quyền lợi đối với nghĩa vụ
-
Bảo vệ các quyền tự nhiên, nhân quyền là mục đích cuối cùng của chính quyền
-
Quyền khởi loạn, làm cách mạng
Lý thuyết khế ước phân tích nguyên nhân căn bản của con người, từ đó dẫn đến những căn bản về đời sống chính trị. Theo thuyết này, nhân loại chịu ảnh hưởng bởi hai nguyên nhân chính là kiêu hãnh và sợ hãi.
Sự sợ hãi của con người dẫn đến sự xác định là, con người có những quyền tự nhiên như quyền tự vệ, và các quyền liên quan như tự do, sở hữu. Sự kiêu hãnh thì tạo ra mâu thuẫn và xung đột. Nếu thiếu đời sống xã hội văn minh thì sự xung đột này sẽ dẫn đến chiến tranh.
Bản tính tự nhiên của con người là gây chiến, và để tránh sự ghê gớm này cũng như bảo đảm các quyền tự nhiên của con người, thì chính quyền phải được thành lập do khế ước. Các chính quyền đều bị hạn chế bởi mục đích trước khi đến sự thành lập chính quyền. Nếu chính quyền nào vượt quá mục đích thì người dân có quyền phản kháng, khởi nghĩa làm loạn.
Do đó chính quyền hiện hữu trong xã hội, thì bộ luật thành văn được lập ra, và được sự đồng ý bởi những người bị trị. Sự đồng ý thỏa thuận về pháp luật của thành phần cai trị và bị trị trong chính trị được gọi là Hiến Pháp.
Từ những luận cứ này, nhiều định nghĩa về hiến pháp được xuất hiện. Theo quan điểm của pháp lý, thì hiến pháp được gọi là Luật Căn Bản, là bộ luật mẹ trên đường hướng hợp nhất với các luật lệ căn bản trong ý niệm cộng đồng, và trong ý niệm cai trị một nước. Bởi thế, định nghĩa về hiến pháp thời nay là sự tổ chức công quyền, các bộ, sở của chính phủ và sự liên quan của các cơ sở đó. Mà trong đó có sự tiêu biểu của hai nhà tư tưởng đấu tranh chính trị: Đông phương là Khổng Tử và Tây phương là Aristotle.
Tới đây, nhìn lại lối lý luận của bà Hương: “Tác giả sáng giá nhất của ý niệm này phải kể đến Khổng tử, ngự lâm quân vĩ đại của chế độ phong kiến” như thế, người ta không khỏi ngạc nhiên. Đây là một tâm lý nông nổi, thông thường khi chúng ta nóng giận mất khôn, hoặc yêu ghét một người nào đó đã phủ nhận chân lý nhân loại, bà Hương sẽ trả lời làm sao khi có người học giả ngoại quốc hỏi bà về lối nói này. Đối phó với chiến thuật của Cộng Sản không phải là việc đơn giản như bà và số người đang nghĩ, ngoài việc ôm bom ba càng mà làm khủng bố hay trực diện tranh đấu trước quân thù, mỗi người mỗi trách nhiệm trong hành xử, trong lời nói để không lầm mà nối giáo cho giặc, ủng hộ sự tuyên truyền cho Cộng Sản.
Gía trị của một nhà đấu tranh mưu cầu hạnh phúc cho dân nước chỉ có thể được bằng sự hy sinh, lòng xả kỷ, và phục vụ lợi ích cho dân tộc. Một vài bộ sách chống Cộng hay vài hành động hình thức đối kháng chưa phải là “điều ắt có và đủ” để kết luận bà là người Việt Nam chân chính. Cũng như chưa hẳn tham dự một vài buổi lễ lạc, vài câu tuyên bố lăng nhăng để rồi tự cho mình là người hoạt động dân chủ và có quyền loạn ngôn theo kiểu “Chí Phèo,” tên một nhân vật trong tiểu thuyết tiền chiến. Đây cũng là điều hoang tưởng của số người thời đại. Thái độ này người ta cho là quá khích, hay cực đoan không ích lợi gì cho phong trào dân chủ trong khi bà đang đối thoại chính trị.
Trong câu khác bà Hương nói: "...để tự bảo vệ mình trong cuộc đấu tranh, tôi viết một bài báo nhằm tuyên bố công khai đoạn tuyệt với cái người ta gọi là “cộng đồng hải ngoại.” Vấn đề này của bà thì chúng ta cần xét theo câu chuyện "gà đẻ trứng vàng." Bà nông dân kia có con gà đẻ trứng vàng, lúc đầu thì bà chờ cho gà đẻ tự nhiên mỗi ngày một trứng, nhưng một hôm vì muốn có được nhiều vàng trong một lúc, nên bà đã làm thịt con gà. Nhưng khi mổ gà ra thì bà lại chẳng thấy nó có cái trứng vàng nào.
Bà không hiểu rằng con gà là "nguồn sản xuất," và cái trứng là "sản phẩm." Để "tự bảo vệ mình" rất nhiều người cũng như bà, chỉ muốn "lượm qủa trứng," chớ không muốn "bỏ tiền ra" mà mua thực phẩm để nuôi con gà.
Theo nguyên tắc "Win-Win" Đồng Thành giữa hai đối tượng (bà Hương và cộng đồng) trong công cuộc tranh đấu chống giặc, là phải ngồi lại với nhau để hai bên cùng thỏa thuận, và đồng hiệp giữa con gà và trái trứng, tức là phải đồng hiệp giữa nguồn sản xuất và sản phẩm.
Để cùng nhau ứng dụng cách nuôi gà để có một tổ chức đấu tranh chống Cộng hoàn chỉnh, chớ không phải là ngồi mà chờ lượm trứng vàng. Điều mà chính bà Hương chưa thấy, là tại tổ chức chớ không phải tại con người. Nếu chúng ta đặt người giỏi tới đâu vào một hệ thống tổ chức tồi như đảng Cộng Sản thì chỉ là "Lose-Lose: Đồng Bại!"
Theo nguyên tắc Đồng Thành thì Cộng Đồng Hải Ngoại chỉ tồn tại nếu có những cơ cấu tổ chức yểm trợ nó để giúp cho "nguồn sản xuất" này hằng ngày sinh ra trứng vàng. Điều bà Hương tưởng thưởng là nền tảng tạo ra thành qủa, mà bà cũng như toàn thể mọi người cùng nhau gặt hái... Vậy chúng ta cần khởi đầu bằng giáo dục để phát triển hệ thống và cấu trúc Đồng Thành/ Trung Thành… khuyến khích hợp tác của một "Cộng Đồng Tác Dụng: Synergize," giữa những người liên hệ, bằng cách đó, chúng ta có thể thực hiện được thành qủa mong ước của mọi thỏa hiệp cá nhân. Mong thay!
Chúng tôi mong rằng những loạt bài tương tự như của bà Dương Thu Hương cần phải viết lại, để tôn trọng lịch sử con người. Tuy nhiên, chúng tôi mong mỏi rằng, những điều nói trên không làm phiền lòng tác giả cũng như độc giả của Đàn Chim Việt, và tình trạng này không còn tái diễn để trả lại không khí trong sạch của những người đang cố gắng tô điểm cho nền văn hóa người Việt Hải Ngoại.
Thần Báo,
Lynnwood ngày 5 tháng 4 năm 2008
* * *
Trung thành - từ khóa Dương Thu Hương Bài đọc trong hội nghị quốc tế các nhà văn Lyon (Pháp quốc) – 2008 Trung thành, ấy là từ quan trọng nhất được xác lập trong các triều đại phương Đông.
Từ thuở những đứa bé vừa bập bẹ nói, chúng đã được dạy rằng nghĩa vụ quan trọng nhất của kiếp sinh tồn là phải “trung với vua”. Ý niệm này được tập nhiễm cùng một lần với sữa mẹ.
Tác giả sáng giá nhất của ý niệm này phải kể đến Khổng tử, ngự lâm quân vĩ đại của chế độ phong kiến. Với từ “Trung thành”, ông ta đã tạo nên một thành lũy gần như bất khả xâm phạm cho xã hội phong kiến suốt mấy ngàn năm, dẫu rằng chính ông ta, để hành nghề thuyết khách, đã chạy như chuột qua các biên thùy và đổi thay các lãnh chúa tiểu quốc như gái hồng lâu thay quần áo.
Vào thời tôi còn trẻ, người ta đổi khái niệm “Trung với Vua” thành “Trung với Đảng”. Đương nhiên, ý niệm này được chấp nhận gần như tức khắc do tính truyền thống.
Từ Vua sang Đảng, có gì phiền toái đâu. Nó vốn là công thức ngàn đời của dân châu Á, một thứ tiêu chí cốt lõi, một thứ kim chỉ nam cho con người trong cuộc sống.
Tuổi hai mươi, tôi đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ. Hiện thực mở ra vô số trang đen khiến tôi phải lật lại mớ ngôn từ. Lúc ấy, tôi mới thấy rằng chúng chỉ là các thây ma không được ngâm trong bể formol bốc mùi cóc chết. Vậy là tôi quyết định đặt chân lên con đường làm giặc.
Năm 1991, bộ trưởng bộ nội vụ Mai Chí... vào gặp tôi trong tù. Ông ta hỏi :
- Tại sao cô dám chống lại Đảng ?...
- Vậy theo định nghĩa của ông, đảng là cái gì ?...
Tôi vặn lại. Ông ta có vẻ sững sờ. Thấy quan lớn không tìm được câu trả lời, tôi nói tiếp :
- Tôi nhìn đảng của các ông theo mô hình này: hơn hai triệu đảng viên thu về trung ương đảng, bao gồm trên ba trăm nhân mạng. Sau đó, hơn ba trăm nhân mạng này lại thu về bộ chính trị bao gồm mười ba người. Nếu con số ấy chỉ bao gồm mười ba cái đầu chứa bã đậu và mười ba nhân cách đồi bại thì không có lý do gì buộc tôi phải trung thành với họ. Đảng không là thượng đế ở trên chín tầng mây. Đảng là con số 13 này. Đích thực là giờ đây, tôi chỉ nhìn thấy 13 cái đầu lợn và 13 thằng đểu. Tôi không có nhiệm vụ trung thành.
Đó là kinh nghiệm đầu tiên. Lần thứ nhất, tôi đập tan ý nghĩa vĩnh định của từ trung thành theo kiểu ông đồ tể giáng một nhát búa vào sọ con bò trước khi đem vào lò mổ.
Sau đó, tôi chính thức thành “kẻ thù dân tộc”, bởi nhà cầm quyền hiểu rằng không những tôi đi chệch con đường của Đảng mà tôi đi ngược hẳn lại con đường ấy.
Về phía tôi, dấn thân hoàn toàn vào tranh đấu, không còn quan tâm đến việc mổ xẻ chữ nghĩa. Rồi, khoảng những năm cuối cùng của thế kỷ XX bỗng dưng tôi nhận được một cú điện thoại của một ông Việt kiều nào đó sống ở Đức. Ông ta đọc những bài luận chiến của tôi trên Internet nên ngỏ lời khen ngợi tôi.
- Cảm ơn ông.
Tôi đáp, theo lệ thường. Cũng theo lệ thường, tôi nghĩ một lời cảm ơn là đủ. Nhưng lần này, ở bên kia đầu dây nói, người đàn ông da vàng mũi tẹt mang quốc tịch Đức bỗng nhiên chu chéo :
- A... Chắc là chị được nhiều người khen quá nên chị xem nhẹ lời khen của tôi... Tôi không thể hình dung rằng....
Đến lượt tôi ngạc nhiên nhưng tôi không chu chéo mà chỉ đáp vắn tắt :
- Xin lỗi ông, nhiều người khen hay ít người khen đối với tôi không quan trọng. Chúng tôi chiến đấu vì tương lai dân tộc. Chúng tôi không chiến đấu vì những lời khen...
Lần ấy, hai mắt tôi mới có dịp mở to thêm. Tôi hiểu rằng thế gian đầy rẫy những kẻ narcisse lố bịch, những kẻ bất tài hợm hĩnh, những con bệnh vĩ cuồng vô danh tiểu tốt gặm nhấm sự vĩ cuồng của chúng trong bóng tối như một thứ thủ dâm. Do đó, để tự bảo vệ mình trong cuộc đấu tranh, tôi viết một bài báo nhằm tuyên bố công khai đoạn tuyệt với cái người ta gọi là “cộng đồng hải ngoại”:
“Ai cũng biết rằng chúng tôi chỉ là một nhúm vô cùng ít ỏi trong số ngót một trăm triệu người Việt nam đang sống dưới chế độ cộng sản, một chế độ tàn bạo chỉ duy trì được trên sự hèn nhát và thiếu hiểu biết của dân chúng.
Cuộc đấu tranh của chúng tôi là trứng chọi đá. Trong cuộc chơi sinh tử ấy, chúng tôi chỉ có thể trông cậy vào sự độ trì của các thần linh xứ sở, vào anh linh của tổ tiên hào kiệt… Tóm lại, vào chính lương tâm mình.
Chúng tôi không đi vào cõi chết vì những tiếng vỗ tay của đám người sống trong an toàn và no đủ, ngày ăn ba bữa và một hai lượt vào phòng vệ sinh để thải phân. Chúng tôi không ngu dại đến mức ấy. Bản thân tôi, chấp nhận thân phận “kẻ thù dân tộc”, chịu sự nhục mạ, vu cáo, đe dọa thường xuyên của cả một bộ máy nhà nước.
Nếu tất thảy những ngón đòn ấy không làm tôi nao núng thì những lời khen cũng thể làm tôi xao xuyến. Đó là hai vế của một phương trình. Không thể có vế nọ mà thiếu vế kia”. Lần ấy, tôi khai tử cho ý niệm “Trung thành với truyền thống”.
Bởi theo truyền thống, người Việt Nam gắn bó một cách chặt chẽ với cộng đồng, họ không thể sống mà thiếu mối liên kết ấy. Nói cách khác, bản năng bầy đàn chế ngự họ một cách tuyệt đối, dẫu trong nhiều trường hợp, mối liên kết cộng đồng chỉ là một thứ “bè” (hệt như bè rau muống trên ao) chứ hoàn toàn không phải là “bạn”. Hoặc nếu gọi một cách gượng gạo là bạn, thì thực chất chỉ là mối quan hệ giữa les frères ennemis (những kẻ thù địch)…
Đó là kinh nghiệm thứ hai. Lần này tôi chặt đứt từ “Trung thành” như bà nội trợ chặt phăng cái đầu một con cá.
Trong cuộc chiến đấu chống lại một kẻ thù mạnh hơn mình cả triệu lần, vũ khí duy nhất của tôi là lòng khinh bỉ. Một sự khinh bỉ tuyệt đối dành cho kẻ cầm quyền.
Để duy trì sức mạnh ấy và để tránh mọi cạm bẫy, đương nhiên tôi phải tự tiêu diệt những vui suớng bình thường của một người đàn bà. Do đó, sự thể không tránh được là tôi trở thành kẻ khắc kỷ, cứng rắn thái quá chẳng những đối với bản thân mà cả với những người xung quanh. Người ta gọi tôi là “mụ già phong kiến” hoặc “cỗ máy của các nguyên lý đạo đức”.
Rồi bỗng dưng, như một thứ hình phạt của Thượng đế, tôi yêu một người đàn ông đã có vợ.
Cú đòn này khiến tôi choáng váng. Hoàn toàn giống như một tai nạn giao thông, người bị nạn không thể hình dung sự việc hai giây trước đó. Tôi, kẻ vẫn đinh ninh rằng những nỗi đau khổ thông thường chẳng thể chạm được đến mình. Tôi, kẻ vẫn đinh ninh có thể chết nhưng không thể chiến bại.
Cú đấm này buộc tôi hiểu thêm cái người ta vẫn gọi là “Số phận”. Khi hiểu “Số phận” là gì con người sẽ khiêm tốn hơn và cũng thanh thản hơn. Tôi chấp nhận số phận. Năm tháng qua, tôi bước vào giai đoạn nguy hiểm nhất của đời người đàn bà độc thân, gọi nôm na là tuổi hồi xuân. Đấy cũng là cơ hội sau cùng cho hạnh phúc.
Những người ruột thịt của tôi thúc giục tôi tái hôn, hăng hái nhất là cô em út, một tiến sĩ toán . Cô em tôi khiêu khích thẳng thừng :
- Một người như chị mà lại chung thuỷ với một thằng đàn ông có vợ, một cái bóng xa lắc xa lơ!... Phải gọi là gì nếu không là hai từ xuẩn ngốc?
- Không, cô hoàn toàn nhầm lẫn - tôi bình thản đáp - Tôi không chung thuỷ với ai ngoài bản thân tôi. Tôi không chung thủy với con người bằng xương bằng thịt đang chung sống với một người đàn bà khác mà chỉ trung thành với những quan niệm về danh dự và đạo đức của chính tôi. Tôi không muốn tái hôn chỉ với lý do đây là cơ hội cuối cùng của các hoạt động tình dục, bởi thế đơn thuần là sự thoả hiệp với hoàn cảnh. Tôi không muốn làm tình với một người trong khi nghĩ tới một người khác, bởi đó là sự lừa dối về cả hai chiều.
Ấy là kinh nghiệm thứ ba. Lần này, tôi làm sống lại từ “trung thành”. Tôi quay chiều vector để biến một từ hướng ngoại trở thành một từ hướng nội.
Sự trung thành chỉ được bảo đảm khi đối tượng để trung thành là chính bản thân ta. Như thế, con người toàn quyền tự do lựa chọn và chịu trách nhiệm về sự lựa chọn đó. Từ nay, từ “trung thành” không còn là một tượng đài hay một thây ma mà là bạn đồng hành với tôi như bóng với hình, như hơi thở…
Phải qua ba mươi năm hành nghề “làm giặc” tôi mới thống lĩnh được một từ, quả là con đường khổ ải. Nhờ thế, tôi hiểu nghề văn là nghề của những người điên và những tên tù khổ sai. Bởi trước khi sử dụng ngôn từ như một thứ chất liệu, họ phải quần thảo với các bóng ma của nó. Một cuộc chiến dai dẳng, âm thầm, khốc liệt.
Vậy thì, xin chúc các nhà văn, những kẻ mộng mơ, những kẻ điên rồ, những tên tù khổ sai chiến thắng!
* * *
Thư trả lời bạn đọc Dương Thu Hương Từ tháng Tư cho đến nay, tôi nhận được quá nhiều cuộc điện thoại do bài báo phản biện của quý ông Thần Báo trên DCVOnline. Nhận thấy rằng sự rầy rà còn tiếp tục xảy ra, tôi đành viết lá thư này để trả lời chung cho quý bạn đọc. Như thế, trước hết tôi xin lỗi những ai không quan tâm đến câu chuyện vặt vãnh này.
Đã từ lâu tôi có thói quen bất động thủ và câm lặng trước mọi sự chửi rủa, nhục mạ, vu cáo, đe dọa của bộ máy cầm quyền Hà Nội. Chỉ khi nào cảm thấy cần thiết phải đánh trả, tôi mới hành động, vì mỗi lần ra đòn phản hồi tôi lại phải rút vũ khí trong kho.
Cuộc đấu tranh cho dân chủ là cuộc chiến không cân sức, do đó cần phải dự trữ và bảo quản vũ khí ở mức tối đa.
Tuy nhiên, không chỉ riêng bộ máy truyền thông Hà Nội tấn công tôi. Còn một đám người khác sống bên ngoài biên giới, họ cũng chửi rủa nhục mạ tôi từ gần hai thập kỷ nay. Với đám người này, chưa bao giờ tôi viết trả một giòng. Giờ đây, vì phải trả lời bạn đọc về vụ “quý ông Thần Bút”, tôi xin lược thuật vắn tắt.
Năm 1995, tôi đọc một loạt bài báo của người Việt sống tại Mỹ với các kiểu văn phong khác nhau. Tác giả gồm non một chục quý ông và một quý bà. Các quý ông này tôi chưa bao giờ đọc, biết và chạm tới tên tuổi họ. Chỉ một người, do tình cờ tôi nhìn thấy trên màn hình của quán café, vì ông ta dẫn chương trình Thúy Nga Paris.
Còn quý bà này thì tự xưng là “em anh Thung”. Bài báo của bà ta không có ý tưởng, chỉ thuần tuý là sự chửi rủa của đám buôn bán lề đường với điệp khúc “anh Thụy tôi”. Cái điệp khúc này được sử dụng như một thứ nhãn rượu vang hảo hạng dán lên một chai nước mắm trợ mùi vậy.
Ông Thụy ở đây là ông Dương Đình Thụy, một trong sáu người thuộc phái đoàn miền Nam do ông Huỳnh Tấn Phát gửi ra Hà Nội sau ngày 30/04/1975 để giúp chính quyền Cộng sản xây dựng một số công trình đô thị. Ông Thụy là một người ruột thịt chí tình, rộng lượng, ấm áp. Tôi rất yêu ông và những kỷ niệm tôi có nơi ông đều là những kỷ niệm tốt đẹp thời thơ ấu. Tuy nhiên, bác tôi không phải là một ông thánh để bất kỳ ai bạ vào ông cũng đều trở thành… thánh. Đã cầm bút, cần phải hiểu điều này: con người là sinh vật duy nhất tự sinh ra mình và lần sinh thành thứ hai này mới thật quan trọng bởi nó đào tạo nên nhân cách, giá trị đích thực của mỗi cá nhân.
Thêm nữa, khi tự nhận là “em của anh Thung” quý bà này đã tưởng nhầm rằng gia tộc họ Dương tuyệt diệt, không còn ai có thể đứng lên phân định sự thật với dối gian. Quý bà này quên rằng chúng tôi vẫn đang tồn tại. Ông bà nội tôi cùng tuổi Giáp Tuất, có năm con: bốn trai một gái. Người con gái duy nhất này không được học hành, suốt đời là một nông dân tỉnh Thái Bình, chúng tôi thường gọi theo tên chồng là bác Viêm. Bà Viêm sinh năm 1910 (tuổi Canh Tuất), sau bà Viêm đến ông Thung sinh năm 1914, và bố tôi là con út sinh năm 1918. Như vậy, ông Thung không có em gái.
Thời điểm ấy, khi đọc bài báo, tôi không khỏi thương hại quý bà này. Đã cầm bút mà không có kiến thức sơ đẳng và lòng tự trọng. Hà tất phải nói thêm.
Năm 2005, khi còn ở Hà Nội, tôi có viết một bài báo để trả lời ông Đinh Ngọc Ninh sống ở Turin, Ý. Trong bài báo này tôi nói rõ là đối với tôi, những kẻ cầm quyền Hà Nội chỉ là một lũ giòi. Giòi theo đúng nghĩa chính xác và cổ truyền của người nông dân Việt Nam. Như vậy, bộ máy truyền thông là tập đoàn đầy tớ của đám giòi này. Họ cần phải chửi rủa, xỉ nhục, vu cáo tôi để kiếm cơm. Tôi không căm giận họ.
Còn các quý ông quý bà ở ngoài biên giới, họ chửi tôi vì lý do gì? Họ không đói cũng không sợ. Nếu thế lý do khiến họ hành động chắc phải trái ngược với đám người kia, họ không đói mà no, no quá nên phải tìm cách chửi ai đó cho tiêu mỡ bụng.
Do đó, tôi không thừa thời gian để đối thoại với các quý ông bà… “no quá” này!
Giờ đây, tôi không còn ở Hà Nội mà ở Paris. Ở xứ người mà tiếp tục im lặng với đồng bào thì quả là… bất tiện. Bởi thế, tôi đành viết lá thư này, lần đầu và cũng có thể là lần cuối.
Xin cảm ơn những bạn đọc quan tâm đến tôi. Nhưng thay vì phẫn nộ hay bực tức, thái độ hợp lý nhất là mỉm cười.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.06.2008 06:36:52 bởi Thần Báo >