Căn Nhà Trong Trí Tưởng
Bạn thân,
Bạn còn nhớ không, Sài Gòn thời thập niên 60 là những năm đầy biến động, hết đảo chánh tới chỉnh lý, hết Phật Giáo xuống đường đến VC tấn công vào dịp Tết Mậu Thân (1968). Lúc đó chúng mình còn đang theo chiến hạm, lênh đênh góc biển chân trời, lâu lâu mới được về Sài Gòn nghỉ bến vài tuần, thế nhưng Sài Gòn biến động cũng làm những ngày nghỉ bến của chúng mình không được bình yên.
Thường thì vì cấm trại “
trăm phần trăm, em ơi” nên thỉnh thoảng chúng mình mới được phép về thăm nhà, thế nhưng tôi lại không có một nơi gọi là nhà tại thành phố thân quen đó. Gia đình tôi ở tuốt trên cao nguyên nên mỗi lần “đi bờ” tôi thường ngủ vật vã trên căn gác xép của “Thịnh Mù” hoặc chia nhau một tấm divan với “Cóc Cần” tại căn nhà gỗ trong con hẻm gần bến xe đò An Đông. Bố mẹ tôi thương thằng con trai long đong nên vay mượn người quen, mua cho tôi căn nhà nhỏ gần Việt Nam Quốc Tự trên con đường Trần Quốc Toản để tôi có chỗ trú ngụ mỗi lần được về nghỉ bến Sài Gòn.
Những ngày Phật Giáo biểu tình khu Việt Nam Quốc Tự mịt mù khói lựu đạn cay, nhiều hôm ngồi trong nhà mà nước mắt tôi giàn giụa, đành phải “di tản chiến thuật” tới nhà “Thịnh Mù” ở tuốt bên Phú Nhuận lánh nạn, và ăn cơm nhờ, hoặc trở về chiến hạm đêm nằm nghe tiếng mình thở dài.
Thấy tôi thường bỏ nhà hoang, bố mẹ tôi xót của nên để đứa em trai tôi từ Đà Lạt xuống sống với tôi cho có anh có em, và trông coi nhà cửa mỗi lần tôi đi xa. Em tôi mới 17 tuổi, còn thơ dại thế mà cũng đã trải qua một ngày thật hãi hùng ở nơi đó. Ngay sáng mồng một Tết Mậu Thân chúng tôi nghe tiếng súng nổ, hé cửa ra nhìn, thấy một người Cảnh Sát bị VC bắn nằm rên la ngay trước cửa nhà. Dù sợ hãi anh em chúng tôi cũng ra đường, cố tìm cho được một chiếc taxi, khiêng người Cảnh Sát lên xe, chở vào bệnh viện Bình Dân để cấp cứu. Ông tài xế xua tay không nhận tiền chúng tôi đưa trả, vội vã bỏ đi ngay sau khi nhân viên bệnh viện mang người bị thương ra khỏi xe. Anh em chúng tôi nép vào hành lang những căn nhà kín cửa trên con đường vắng, đi bộ về nhà, không biết số phận của người cảnh sát đó sau này ra sao vì không thấy ông ta trở lại nơi mình bị bắn, hỏi thăm hay cám ơn người đã đưa mình đi cấp cứu.
Căn nhà nhỏ trở thành một ám ảnh nên chúng quyết định bán đi, tìm một chỗ khác yên lành, và tôi đã chọn được một căn nhà … ngay trước cửa nghĩa địa! Bố mẹ tôi và bạn bè ai cũng can ngăn thế nhưng lúc đó tôi tin là sống gần người chết có lẽ yên thân hơn là sống gần mấy … ông sư, và tôi cũng chẳng tin ma quỉ nên không e ngại cái nghĩa địa bên kia đường ngay trước cửa nhà.
Căn nhà trước đó xây cho Mỹ mướn nên đầy đủ tiện nghi. Sân trước đủ rộng cho xe hơi đậu, và có cây huỳnh anh trước ngõ lá lúc nào cũng xanh ngắt, và hoa vàng hầu như nờ quanh năm, thoáng nhìn thật là nên thơ. Thật là bất ngờ, khi dọn vào tôi mới biết, một bên hàng xóm của tôi là gia đình một ông công chức đã hồi hưu, có hai cô con gái học trường Tây (Marie Curie), nói tiếng Việt không rành để tôi bập bẹ tiếng Pháp đã rơi rụng từ ngày tôi rời ghế nhà trường. Lúc đó tôi còn độc thân, nhọc nhằn với sóng nước, nay ở mai về, nhưng đối với những người con gái kín cổng cao tường thì đó là cuộc sống đầy bí ẩn và quyến rũ. Tôi lần lượt trước sau rơi vào vòng tay của … cả hai chị em. Đó là những mối tình trong sáng, và nhẹ như mây trời, để rồi vội tan như sương mai vì cả hai chị em đều theo nhau giã từ VN, qua Pháp du học.
Căn nhà trước cửa nghĩa địa đó không chỉ là một mái hiên che nắng che mưa mà còn là một nơi mang đến cho tôi nhiều may mắn, có lẽ nhờ những hồn ma không quen nằm bên kia đường phù hộ. Vài năm sau khi vào sống trong căn nhà đó tôi được thuyên chuyển khỏi chiến hạm, lên Bộ Tư Lệnh Hải Quân làm việc ngay tại bờ sông Sài Gòn, thành hôn với người yêu dấu, và năm 1973 tôi được học bổng du học tại Hoa Kỳ, một ước mơ tới muộn màng vào tuổi 30, thế nhưng nhờ vậy mà tôi đã không phải bị lưu đày trên núi rừng Bắc Việt, hoặc cay đắng trong “Chuyến Hải Hành Cuối Cùng” như bao nhiêu bạn bè cùng khoá vào cuối tháng Tư năm 1975.
Bạn thân,
Em trai tôi ở lại căn nhà đó cho đến năm 1990 mới đoàn tụ với chúng tôi tại Hoa Kỳ, và căn nhà được bán đi với giá rẻ mạt, gần như cho không. Năm 2004, sau 31 năm xa cách, tôi có trở về Sài Gòn một lần thế nhưng đã không có thì giờ tới thăm chốn cũ, nhìn lại căn nhà xưa, tuy nhiên tôi cũng được biết là người ta đã hốt hết cốt tại nghĩa địa bên kia đường, và chỗ đó bây giờ là cái chợ nhỏ. Cây huỳnh anh trước ngõ cũng đã bị chặt bỏ, sân trước trở thành một … pharmacy, chứ không còn là nơi tôi đứng chuyện trò với hai người con gái bên kia hàng rào những buổi chiều không có nắng.
Căn nhà, “
nơi sống bao ngày giờ đằm thắm…”, chỉ còn trong trí tưởng, và tôi biết dù có trở về tôi cũng sẽ không bao giờ tìm lại được những bóng hình ngày xưa. Tiếc quá, tôi cũng chẳng có một tấm hình nào của cây huỳnh anh trước ngõ. Thôi cũng đành, phải thế không, bạn ta?
Tình thân,
Ngụy Xưa
Nov. 25, 2014