NgụyXưa
Như Một Lời Cám Ơn
Bạn thân,
Trở về từ một chuyến đi xa, thăm viếng các nước Bắc Âu trong vùng biển Baltic, tôi thành thực muốn chia sẻ với bạn vài cảm nghĩ và những xao động của tâm hồn.
Chuyến đi đã được hoặch định từ lâu nhưng khi lên đường trong lòng tôi quả tình không được thảnh thơi. Thứ nhất, mẹ tôi vừa ở bệnh viện về, sức khoẻ hãy còn rất mong manh, nếu có chuyện gì xảy ra cho mẹ khi mình ở xa thì thật là đau lòng. Thứ hai, tình hình Việt Nam với sự đe doạ từ phương Bắc là một ưu tư của toàn dân, dù sống tại quê nhà hay nơi hải ngoại, thế nhưng mặc dù lo nghĩ chúng mình cũng không biết làm được gì hơn.
Đêm đó ở Oslo (Norway) tôi ngồi xem tin tức của BBC trên TV, thấy dân VN biểu tình chống Trung Cộng khí thế rất là hăng hái, thế nhưng tôi biết hành động và ý chí đó không đủ làm cho kẻ xâm lăng sợ hãi, mang giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi thềm lục địa của VN. Trong lúc thẫn thờ tôi chợt nghĩ đến những người phi công Nhật thời đệ nhị thế chiến, lao phi cơ xuống chiến hạm của Mỹ, hy sinh thân mình cho đất nước, và tôi ước gì có một phi công VN cũng sẽ lao tàu xuống giàn khoan Hải Dương. Như trong giấc mơ tôi thấy giàn khoan trị giá hàng tỷ Mỹ kim nổ tung, bốc cháy và chìm dần xuống lòng biển sâu, và quân sử VN có thêm một anh hùng! Chỉ mơ ước thế thôi mà tôi đã thấy bùi ngùi, mắt hình như cay!
Trong chuyến đi này tôi cũng có dịp thăm viếng St. Petersburg, cố đô của đế quốc Nga. Thú thật với bạn từ xưa tôi vẫn không có cảm tình với đất nước này, và còn có chút coi thường người Nga, vì sự tan vỡ của liên bang Sô Viết dưới áp lực của Tây Phương. Như một du khách đặt chân tới thành phố đó tôi mới biết là mình đã lầm. Đền đài tráng lệ, thánh đường cổ kính, viện bảo tàng với những sưu tập nghệ thuật , nhất là các danh hoạ, dù sao cũng chỉ là quá khứ và không phải là những gì cho chúng ta quan tâm. Điều đáng khâm phục là người Nga (ít ra tại St. Petersburg) rất kỷ luật, đường phố sạch sẽ, giao thông ngăn nắp, và hệ thống xe điện ngầm của họ hiện đại, sạch và đẹp như một hotel 5 sao, khiến cho tôi cảm thấy xấu hổ khi nghĩ tới hệ thống Metro cũ kỹ và bẩn thỉu của thành phố Nữu Ước. Không chỉ khâm phục mà còn có chút lo sợ vì nước Nga với một nhà lãnh đạo cứng rắn đầy thủ đoạn, với một nền kỹ thật hiện đại, và nhất là tinh thần kỷ luật của dân chúng, đế quốc Nga một ngày nào có thể sống lại trong lúc Hoa Kỳ càng ngày càng suy yếu vì những yếu tố xã hội phức tạp. Chỉ là những nhận xét phiến diện của một du khách, và những lo nghĩ vu vơ của một người yêu nước mình, mong là bạn đừng cười.
Có một điều bất thường nữa trong lúc tôi ở xa là thành phố nơi tôi cư ngụ gần San Diego chìm trong biển lửa vì cháy rừng. Qua tin tức truyền hình tôi lo sợ ngồi đứng không yên. Khi tôi đi xa, nhà khoá cửa, không có người trông coi. Con gái tôi ở gần (La Jolla), nhà của cháu không ở trong vùng hoả hoạn nhưng cháu cũng không thể tới khu tôi ở để xem xét tình hình, mãi cho tới gần ngày về lại Mỹ tôi mới nhận được text message của con, cho biết là mọi chuyện đều đã bình yên!
Trở lại nhà vào lúc 2 giờ đêm hôm qua, tôi thật bùi ngùi nhận được những lời thăm hỏi của bạn qua emails, voice messages … vì trận cháy rừng trong vùng chúng tôi cư ngụ tuần vừa rồi. Xin thành thật cám ơn bạn.
Căn nhà của chúng tôi nằm trong khu dân cư bắt buộc phải di tản vì lửa cháy tới gần kề nhưng may mắn gió đổi chiều nên còn nguyên vẹn, chỉ bị gió thổi bay vài thứ lặt vặt sau nhà. Nghe message của chính quyền ra lệnh di tản để lại trong hộp thư tôi thấy nếu có mặt ở nhà tôi sẽ rất là lo sợ và lúng túng vì không biết sẽ quyết định ra sao, mang theo hay bỏ lại những gi. Làm sao quyết định sáng suốt được trong lúc tài sản và kỷ niệm của một đời người có thể bị tiêu tan trong giây lát!
Bạn thân,
Mọi chuyện có lẽ đều là do số phận, xin được cám ơn Trời và một lần nữa cám ơn bạn đã nghĩ tới tôi trong những lúc hoạn nạn. Mẹ tôi sống với các em tôi trên San Jose, tình trạng sức khỏe cũng gần như đã bình thường. Không gì quí hơn sức khoẻ, phải thế không bạn thân, nhất là khi thấy bạn ta, nhà văn Vũ Thất, aka Mã Xa, “lóng rày bịnh quá” trong mấy lần du lịch chung với nhau.
Tôi vẫn còn vài chuyến đi xa dự trù trong năm nay và năm tới, đi vì biết rồi sẽ có một ngày chỉ còn có thể đứng trên bờ biển, nhìn sóng bạc đầu, nghĩ về ngày tháng cũ, nhớ tới những người mình đã có một thời gặp gỡ và yêu thương. Mong là lần tới sẽ có bạn đi chung.
Thân chúc các bạn những ngày an vui, và gặp nhiều may mắn trong cuộc đời.
Tình thân,
Ngụy Xưa
May 25, 2014
Cám ón bài viết của Ngụy Xưa. Tôi xin bàn vài lòi như sau:
Trước khi bàn sâu xin nhìn lại lịch sử một chút: Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến xảy ra và kéo dài từ giữa năm
1950 đến năm
1953 trên
bán đảo Triều Tiên bị chia cắt vì sự chiếm đóng tạm thời của
Liên Xô và
Hoa Kỳ. Chiến sự được châm ngòi vào ngày
25 tháng 6 năm
1950 khi
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) tấn công
Đại Hàn Dân quốc (Nam Triều Tiên). Quy mô cuộc chiến trở nên lớn khi lực lượng của
Liên hiệp quốc được
Hoa Kỳ lãnh đạo và sau đó là
Chí nguyện quân của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa can thiệp. Chiến cuộc kết thúc khi hai miền đạt được một thỏa hiệp ngừng bắn vào ngày
27 tháng 7 năm
1953.
Lực lượng hỗ trợ chính cho miền Bắc là
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với sự tiếp ứng hạn chế của
Liên Xô trong hình thức các
cố vấn quân sự, phi công quân sự và vũ khí. Đại Hàn Dân Quốc được lực lượng Liên hiệp quốc, chủ yếu là
quân đội Hoa Kỳ, hỗ trợ. Trước cuộc xung đột, CHDCND Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc tồn tại như hai chính phủ lâm thời đang tranh giành ảnh hưởng kiểm soát toàn bộ
Bán đảo Triều Tiên.
Tại Hàn Quốc, cuộc chiến thường được gọi là
ngày 25 tháng 6 hoặc
Chiến tranh ngày 25 tháng 6 (
tiếng Triều Tiên: 6·25 전쟁), là ngày khởi đầu của cuộc xung đột hay gọi chính thức hơn
Hàn Quốc chiến tranh (
tiếng Triều Tiên: 한국전쟁, phiên âm latinh: "Hanguk Jeonjaeng"). Tại Bắc Triều Tiên, trong khi thường được biết như là Chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến được gọi chính thức là
Chiến tranh Giải phóng Tổ quốc (조국해방전쟁). Tại Hoa Kỳ, cuộc xung đột được gọi tên chính thức là
Cuộc xung đột Triều Tiên hơn là một cuộc chiến tranh, chính yếu là tránh sự cần thiết có sự tuyên chiến của
Quốc hội Hoa Kỳ. Cuộc chiến đôi khi được gọi là
Cuộc chiến bị lãng quên và
Cuộc chiến không được biết vì nó là một cuộc xung đột lớn trong thế kỷ 20 ít được chú ý hơn
Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra trước nó, và
Chiến tranh Việt Nam khốc liệt hơn xảy ra sau đó.
[25] Tại
Trung Hoa, cuộc chiến được biết đến với tên gọi
Chiến tranh Kháng Mỹ viện Triều (
抗美援朝, nghĩa là "Chiến tranh chống Mỹ và trợ giúp Triều Tiên") (
朝鮮戰爭,
Chaoxian Zhanzheng).
[26] Như đã thỏa thuận với
Mỹ, Liên Xô dừng quân lại ở vĩ tuyến 38 độ bắc. Quân đội Hoa Kỳ ở phần phía nam của bán đảo đầu tháng 9 năm 1945. Nhiều người Triều Tiên đã tổ chức chính trị trước khi quân đội Hoa Kỳ đến.
[30] Chính phủ Hoa Kỳ lúc đó tin rằng
Khối Cộng sản là một khối thống nhất, và những hành động của Bắc Triều Tiên là chủ trương của cái khối này như là một cái móng vuốt của
Liên Xô. Vì thế, Hoa Kỳ xem đây như là một cuộc xung đột quốc tế hơn là một cuộc
nội chiến.
Sau
trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại
Genève năm 1954 để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả
Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là đình chiến và tạm thời phân đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự có ranh giới tại
vĩ tuyến 17. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của
Liên Hiệp Pháp và
Quốc gia Việt Nam. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả 2 miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền Nam. Khoảng 1 triệu người, đa số theo
Công giáo và ở miền Bắc đã
di cư vào Nam.
Ở miền Bắc, chính quyền
Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên
xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, một số sai lầm đã diễn ra, như cuộc
cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đã đưa hơn hàng chục ngàn người thuộc diện địa chủ-phú nông ra đấu tố, cầm tù, giết hại đã tạo ra sự xáo trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu. Mặt khác trong cuộc dẹp trừ phong trào
Nhân văn Giai phẩm nhiều nhà văn, nhà báo đã bị đưa đi cải tạo, kiểm điểm hoặc cho thôi việc và không được phép tiếp tục xuất bản tác phẩm vì viết bài không đúng ý nhà cầm quyền
Tại miền Nam,
Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng một nền
kinh tế thị trường[25], cũng như củng cố quân đội để giữ vững chính quyền này. Vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài trăm người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối
thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính quyền
Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh,
Hướng Điền (
Quảng Trị), ở
nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng ngìn tù nhân tình nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn,nước uống). Các cuộc biểu tình của
Phật giáo vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây mâu thuẫn tôn giáo sâu sắc
Chiến tranh bắt đầu bùng nổ năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với
Campuchia và
Lào, và các trận không kích của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là
Việt Nam Cộng hòa,
Hoa Kỳ và các đồng minh
Hàn Quốc,
Thái Lan,
Úc,
New Zealand,
Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, còn
Liên Xô và
Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và lực lượng cố vấn.
Tháng 1 năm 1974,
Trung Quốc đã
tấn công vào
quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do chính quyền
Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và chiếm đóng hoàn toàn quần đảo này
Sau hiệp định Paris 1973, quân đội Mỹ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam - điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày. Mặc dù đã có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn, quân đội hai bên tại Nam Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm điều khoản đình chiến trong hiệp định Paris. Nhưng với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho
Việt Nam Cộng hòa, đến giữa
tháng 3 năm
1975, quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc tấn công ở
Tây Nguyên khởi đầu
những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi
Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ. Ngày
30 tháng 4 năm
1975, quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được Sài Gòn, chính quyền của tổng thống
Dương Văn Minh của
Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng.
Sau chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tháng 5 năm 1975, quân đội Khmer đỏ đã tấn công đảo
Phú Quốc và
Thổ Chu của Việt Nam. Từ năm 1975-1978 tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra thường xuyên, với sự hậu thuẫn của
Trung Quốc, quân đội Khmer đỏ nhiều lần tiến hành các cuộc đột kích vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, theo thống kê có khoảng 30.000 thường dân và hàng nghìn quân lính Việt Nam bị quân đội Khmer đỏ giết hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới trong thời gian này.
Vào tháng 12 năm 1978, quân Khmer đỏ mở các cuộc tấn công lớn vào các tỉnh biên giới từ
Tây Ninh đến
Kiên Giang, thị xã
Hà Tiên bị chiếm. Quân đội Việt Nam tổ chức phản công, tới ngày 7 tháng 1 năm 1979 họ tiến quân vào thủ đô
Phnom Penh, ngày 8 tháng 1 với sự hậu thuẫn của Việt Nam,
Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia được thành lập do
Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia. Tới năm 1989, quân đội Việt Nam rút về nước.
Sự kiện Việt Nam phản công và lật đổ chế độ Khmer đỏ ở Campuchia là một cái cớ để
Trung Quốc vốn ủng hộ chế độ Khmer đỏ có lý do tấn công xâm lược Việt Nam với tuyên bố của
Đặng Tiểu Bình "
Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam một bài học". Ngày 17 tháng 2 năm 1979, với một lực lượng khoảng 300.000 quân, Trung Quốc đã bất ngờ tất công vào các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam từ
Móng Cái tới
Lào Cai, sau đó đã chiếm được thủ phủ các tỉnh này. Sau những bất ngờ ban đầu, Việt Nam đã tổ chức phản công lại và cùng với những quân đoàn thiện chiến được chuyển từ chiến trường Campuchia ra đã dần giành lại được lợi thế, tới ngày 18 tháng 3 năm 1979 Trung Quốc tuyên bố rút quân.
Sự kiện này đã gây nên cuộc khủng hoảng "nạn kiều" ở trong nước. Đầu
thập niên 1980, nhiều người Hoa và Việt gốc Hoa chạy khỏi Việt Nam về Trung Hoa hoặc gia nhập nhóm "thuyền nhân" chạy sang nước khác. Cuộc chiến này cũng đưa tới việc cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước, hơn 13 năm sau tới năm 1992, hai nước mới bình thường hóa lại quan hệ ngoại giao.
Cũng trong thời gian này, tháng 3 năm 1988 Trung Quốc mở cuộc
hải chiến vào các bãi đá
Cô Lin,
Len Đao,
Gạc Ma thuộc
quần đảo Trường Sa và chiếm đóng Gạc Ma.
Năm 1995, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với
Mỹ, và tiếp đó gia nhập khối
ASEAN,
APEC, thành viên diễn đàn
ASEM. Ngày 7 tháng 11 năm 2006 đã trở thành thành viên thứ 150 của
WTO.
Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á hay
Liên phòng Đông Nam Á,
[1] cũng còn gọi là
Liên minh Phòng thủ Đông Nam Á[2] (tên
tiếng Anh:
South East Asia Treaty Organization, viết tắt là
SEATO) là một liên minh của các quốc gia được tuyên bố nhằm mục đích phòng thủ và hợp tác kinh tế ở
Đông Nam Á và khu vực
Thái Bình Dương.
Lịch sử
Liên minh này được thành lập ngày
8 tháng 9 năm
1954, chưa tới 2 tháng sau
Hiệp định Genève được ký, kết thúc
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, tạm thời chia đôi
Việt Nam tại
vĩ tuyến 17 và buộc quân Pháp rút khỏi
Đông Dương. Các nước thành lập SEATO gồm có:
Australia,
Pháp,
Anh,
New Zealand,
Pakistan,
Philippines,
Thái Lan và
Hoa Kỳ.
Cũng như
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), liên minh SEATO ra đời nhằm mục đích ngăn chặn sự lan tràn của
chủ nghĩa cộng sản, nhưng khác với NATO, SEATO không ràng buộc các quốc gia thành viên tham chiến chống lại mối đe doạ quân sự. Dù SEATO hợp thức hóa nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ trong
chiến tranh Việt Nam và nhiều quốc gia thành viên SEATO gửi quân đến Việt Nam quân sang tham chiến, chính SEATO thì lại không đóng vai trò trực tiếp trong cuộc chiến này. Pháp ngừng tham gia tích cực vào SEATO năm
1967 và Pakistan chính thức rút khỏi tổ chức này năm
1972.
Khi Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam năm 1972-1973 và lực lượng cộng sản chiếm ưu thế ở Đông Dương năm
1975, SEATO đã trở thành một tổ chức lỗi thời. Với sự đồng thuận chung, liên minh này giải tán ngày
30 tháng 6 năm
1977.
Theo tôi thì Tiền thân của ASEANkhông phải chỉ có tổ chức có tên
Hiệp hội Đông Nam Á, thường được gọi tắt là
ASA mà còn là SEATO nũa. ASA là một liên minh thành lập năm 1961 gồm ba nước Philippines, Malaysia và Thái Lan. Ngày 8 tháng 8 năm 1967, khi các
bộ trưởng ngoại giao của năm quốc gia – Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan – gặp gỡ tại Bộ ngoại giao Thái Lan ở
Bangkok đã ra Tuyên bố ASEAN, thường được gọi là
Tuyên bố Bangkok để nhập ASA cùng với Indonesia và Singapore thành ASEAN. Năm ngoại trưởng –
Adam Malik của Indonesia,
Narciso Ramos của Philippines,
Abdul Razak của Malaysia,
S. Rajaratnam của Singapore, và
Thanat Khoman của Thái Lan – được coi là những sáng lập viên của tổ chức này.
[4] Ba động lực tạo ra ASEAN là mục đích xây dựng đất nước, tinh thầnh
chống cộng, và mục tiêu phát triển kinh tế. Các quốc gia trong vùng khi đã mất tin tưởng vào vào các cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong bối cảnh của
thập niên 1960 hầu hỗ trợ lẫn nhau. Đối với Indonesia thì nước này còn có tham vọng
bá chủ trong khu vực trong khi Malaysia và Singapore thì lại muốn dùng ASEAN để kiềm chế Indonesia, đưa nước này vào một khuôn khổ mang tính hợp tác hơn. Khác với
Liên minh châu Âu với mô hình phân giảm quyền hành tập trung ở mỗi quốc gia, ASEAN có mục đích bảo vệ và chấn hưng
chủ nghĩa quốc gia.
[5] Bỏi vậy theo tôi tiền thân của ASEAN còn là SEATO nũa chú không phải ASA không đâu! Vị trí chiến lược và địa hình phù hợp Vịnh Cam Ranh của Việt Nam từ lâu được đánh giá là có vị trí địa lý hết sức chiến lược. Các nhà quân sự đánh giá ai có được Cam Ranh thì có thể kiểm soát được biển Đông. Do vậy, ở đây từ lâu là nơi đặt quân cảng quan trọng bậc nhất của Mỹ, Liên Xô và Việt Nam hiện nay.
Vịnh Subic gần đây cũng gây chú ý cho thế giới khi Mỹ quyết định quay lại quân cảng một thời. Căn cứ Subic từng là cơ sở lớn nhất của Hải quân Mỹ tại Thái Bình Dương và từng là cơ sở quân sự hải ngoại lớn nhất của Mỹ. Căn cứ này được coi là đối trọng của Cam Ranh trong thời kỳ chiến tranh lạnh.
Cảng vịnh Subic được đánh giá là một trong các vị trí xung yếu chiến lược bởi nó nằm ở vị trí trung tâm Thái Bình Dương, hướng thẳng ra biển Đông, có thể kiểm soát được đường lối giao thương hàng hóa, xuất nhập dầu mỏ của Trung Quốc từ Trung Đông. Vịnh chỉ cách bãi cạn Scarborough/Hoàng Nham 124 hải lý. Đây là khu vực tranh chấp giữa Philipinnes và Trung Quốc trên Biển Đông và hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc. Với lực lượng hải quân mạnh đồn trú ở Subic, Mỹ có thể hoàn toàn kiểm soát mọi động tĩnh của Trung Quốc trên biển Đông.
Vị trí hết sức chiến lược của Subic, từ đây lực lượng hải quân Mỹ có thể kiểm soát được biển Đông Về địa hình, vịnh Subic ăn sâu vào đường bờ phía tây nam đảo Luzon của Philippines theo trục bắc-nam khoảng 8 hải lí (15 km) và có chiều rộng khoảng 3,5 hải lí (6,5 km). Về phía biển, vịnh được giới hạn bởi mũi Sampaloc và mũi Mayagao cách nhau gần 6 hải lí (11 km) theo trục bắc đông bắc-nam tây nam.
Đường bờ biển phía tây của vịnh tương đối thẳng, định hình rõ với địa hình cao ở phía sau trong khi đường bờ phía đông thì thấp. Subic là một cảng nước sâu được nhiều ngọn núi có rừng nhiệt đới che chở. Độ sâu của vịnh giảm dần từ 60 m (cửa vịnh) đến 13,7 m (gần đầu vịnh). Từ tháng 10 đến tháng 4, vịnh chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc với tốc độ gió trong ngày từ 7,7 đến 10,3 m/s. Đảo Grande chia đường vào vịnh thành hai luồng riêng biệt, trong đó chỉ có luồng phía tây đảo là dành cho tàu thuyền lưu thông. Với địa hình như vậy vịnh Subic cho phép mọi loại tàu mặt nước kể cả tàu sân bay cũng như tàu ngầm có thể neo đậu.
Còn vịnh Cam Ranh có diện tích gần 60km2. Chỗ hẹp nhất khoảng 10km, rộng nhất 20km, độ sâu trung bình từ 18 - 20m. Vịnh gần như khép kín bởi bán đảo Cam Ranh từ phía bắc chạy phủ kín cả phía đông, phía tây. Phía nam vịnh là đất liền, chỉ mở ra một cửa lớn - được ví như một cánh tay ôm lấy vịnh, tạo thành một vành đai nên mặt nước, có khả năng đón nhận nhiều hạm đội một lúc, nhiều tàu chiến tàu ngầm và các tàu có trọng tải trên 100.000 tấn có thể ra vào dễ dàng bất cứ lúc nào trong năm.
Địa hình Cam Ranh với bán đảo Cam Ranh che kín gần như toàn bộ vịnh tạo ra vùng nước lặng gần như tuyệt đối Đảo Grande chia vịnh Subic thành hai luồng vào vịnh, xung quanh là núi và rừng nhiệt đới Lịch sử căn cứ Subic Trong quá khứ, Tây Ban Nha lập căn cứ đồn trú tại vịnh Subic từ nửa sau thập niên 1860. Từ năm 1901 đến năm 1902, Mỹ duy trì căn cứ Hải quân Vịnh Subic tại đây. Sau khi trải qua những trận chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ giành quyền kiểm soát vịnh từ tay Nhật Bản. Ngày 14 tháng 3 năm 1947, Thỏa ước Căn cứ Quân sự được ký kết cho phép Mỹ thuê 16 căn cứ và khu vực dành cho quân sự bao gồm vịnh Subic trong khoảng thời gian là 99 năm.
Trong chiến tranh Việt Nam, căn cứ trở thành trạm hậu cần kỹ thuật cho Hạm đội 7. Từ con số trung bình 98 chuyến tàu ghé thăm cảng mỗi tháng trong năm 1964 vượt lên đến con số trung bình 215 chuyến vào năm 1967, với khoảng 30 tàu luôn có mặt ở cảng bất cứ thời điểm nào. Một con số kỷ lục được lập là vào tháng 10 năm 1968 có đến 47 tàu trong cảng.
Vào năm 1991, Philippines quyết định thu hồi cảng trước thời hạn bất chấp sự phản đối của Mỹ. Ngày 24 tháng 11 năm 1992 , cờ Mỹ hạ xuống tại Subic lần cuối cùng.
Thời gian gần đây, Philippines bị Trung Quốc kéo vào những căng thẳng trên biển Đông. Do đó, Mỹ muốn mượn thời điểm này để quay lại căn cứ Subic. Nhưng phía Philippines hiện tại chỉ mới cho phép các tàu chiến Mỹ vào bảo dưỡng, tiếp tế tại Subic mà chưa cho phép đóng căn cứ tại đây.
Bất lợi của Subic so với Cam Ranh Trong chiến tranh lạnh, Mỹ sử dụng Subic để làm đối trọng với cảng Cam Ranh của Liên Xô, như thế đủ thấy được giá trị chiến lược của Subic. Tuy nhiên, so với Cam Ranh thì Subic có những bất lợi nhất định.
Trước hết là do Subic là một vịnh nằm ở đảo chứ không phải như Cam Ranh nằm ở rìa một lục địa. Với Cam Ranh thì điều này cho phép việc bố trí lực lượng, tiếp tế, bảo vệ cho căn cứ có thể kéo sâu trong lục địa. Còn vịnh Subic thì luôn phải đề phòng sự phong tỏa của lực lượng Hải quân đối phương. Do vậy xung quanh bốn mặt đảo luôn phải duy trì được một vành đai an toàn.
Bên cạnh đó việc bố trí các lực lượng khác như lục quân, không quân tạo thành một căn cứ liên hoàn trên đảo cũng gặp nhiều bất lợi hơn so với Cam Ranh.
Ngoài ra, cần lưu ý đến yếu tố thời tiết. Đảo Luzon của Philippin là "rốn bão" của biển Đông nên điều kiện thủy văn không hoàn toàn thực sự phù hợp cho hoạt động của lực lượng tàu chiến trong mọi thời điểm. Đặc biệt hơn là đối với lực lượng không quân thì yếu tố thời tiết càng ảnh hưởng mạnh.
Về địa hình, Cam Ranh được bán đảo Cam Ranh gần như che kín vịnh, đảm bảo vùng nước gần như lặng tuyệt đối, cũng như che chắn khỏi sự đe dọa hỏa lực và các thiết bị trinh sát của đối phương. Vịnh Subic không được che chắn kín như vịnh Cam Ranh.
Tuy nhiên, với sự hùng hậu về lực lượng của Mỹ cùng sự quyết tâm của Philippines trước những hành động leo thang của Trung Quốc ở biển Đông chắc chắn Subic sẽ trở thành một chốt chặn quan trọng, có thể xoay chuyển thế chiến lược ở biển Đông.
Đây phải chăng là luật nhân quả ! Việt Nam bây giờ có phải đang đi theo hướng của VNCH khi xưa? Khi thấy rằng chủ quyền của đất nước bị đe dọa.Rõ rang không thể đặt lợi ích chủ nghĩa đảng phái lên trên dân tộc? Có phải dân quyền cao hơn đảng quyền?. Không thể không kết họp vói các nước Đông Nam Á để tìm hậu thuẫn hòng chống lại cường quyền phương bắc mà chỉ mới đây thôi CSVN đã chạy theo để rồi nên kinh tế đã bị lệ thuộc quá sâu. Giò Trung Quốc “anh em” như răng vói môi giỏ quẻ “răng cắn môi chảy máu” thì mới thấy thật sự cay đắng. Một chiến lược gia giỏi phải có tầm nhìn xa ít nhất là hang mấy chục năm sau, tìm bạn mà chơi để lợi ích quốc gia được đảm bảo biết lúc nào cứng lúc nào mềm.
Hoa Kỳ với những tầm nhìn chiến lược cực kỳ sắc bén đã dồn Nhật Bản đến chỗ đầu hàng, lập vịnh Cam Ranh và Subic để dè chừng “con sủ tủ” Trung Quốc tỉnh dậy vậy mà Việt Nam lâu nay vuốt râu sủ tủ mà không biết!.
Ngụy Xưa nói đúng sao không có ai cảm tủ đâm đầu vào giàn khoan của Trung Quốc nhỉ?
Đừng nói là yêu hòa bình đấy nhé! Vói người anh em miền nam năm 75 hăng lắm mà, hô hào om sòm.
Tôi mong Viêt Nam hãy áp dụng ngay khẩu hiệu này của tướng Võ Nguyên Giáp khi đánh miền nam ruột thịt với bọn sài lang Trung quốc trên biển đông ngày hôm nay đi:
Thay vì Thần tốc thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng thì xốc ra biển đông đánh chìm giàn khoan 981 quyết chiến một phen Đánh cho nó chìm giàn khoan
Đánh cho nó tịt vòi rông
Đánh cho nó tàu bay tan tác
Đánh cho nó tàu chiến chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ.!
Xin lỗi Ngụy xưa nếu Bunthang có nói quá lời thì châm chước cho mấy bũa nay túc anh ách thường ngày chỉ ham đọc văn chương chẳng muốn bàn chính trị nhưng không nói không được.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2014 18:51:33 bởi bunthang >