MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 63 bài trong đề mục
Tác giả Bài
Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 21.04.2021 17:38:52
             PHẠM NGỌC THÁI NHÀ THƠ CCB TÀI NĂNG
             CÓ CUỘC ĐỜI HOẠN NẠN VÀ SÓNG GIÓ
 
                                                     Nguyễn Thị Hoàng         
                                     Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm 
      
        Nguyễn Thị Hoàng
       Trong đời thường: Anh là một người chồng, người cha giàu tình yêu thương và chăm sóc gia đình - Ngoài xã hội với bạn bè, anh sống rất chân thành, trung thực, không vụ lợi. Ngày ngày cùng người vợ bươn trải làm ăn, lo cơm áo đời thường. Đặc biệt rất yêu và chăm sóc con cái... cả đến khi chúng đã lớn rồi. 
     Trong cuộc đời - Phạm Ngọc Thái chỉ đam mê sáng tác văn học, nhất là thơ. Nghệ sĩ phim truyện truyền hình Việt Nam Trần Việt Thịnh, với bài " Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sĩ ", viết về anh:
      " Nếu thơ ca là ngôi đền kì vĩ và cao sang, thì có thể coi Phạm Ngọc Thái là một tín đồ của không nhiều tín đồ trong ngôi đền đó. Anh viết nhiều sắc màu, đủ cả. Thơ anh bao trùm nhiều đề tài, thể loại, mà loại nào cũng đậm đà, sâu sắc đến lạ kỳ. Nó không giống Xuân Diệu hay Thế Lữ, có chăng phảng phất đâu đó của Hàn Mặc Tử... pha tính triết lý Chế Lan Viên, có chút cay chua của Hồ Xuân Hương hoặc âm hưởng của Walter Whitman (nhà thơ Mỹ). 
      Thơ anh không dễ hiểu. Song, đọc đi đọc lại mới thấm cái sâu xa, lí lẽ con người trong cuộc tồn sinh...". 
              (Trích tập" Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", 2014 )
      Có thể nói, Phạm Ngọc Thái là con người "rất thi sĩ" nhưng... cũng "rất lính"! Đúng thôi: Anh là một CCB đã từng trải qua cả một giai đoạn dài suốt chục năm trong cuộc chiến tranh máu lửa, trên chiến trường miền Nam. Như Nguyễn Thi Xuân - GV Trường THPT Ba Đình, Hà Nội bình luận: 
      " Với mười năm chinh chiến nghiệt ngã và bom đạn: Ba lần bị thương, ba lần đổ máu - Mảnh pháo vẫn còn găm sót lại trong người, không lấy ra được? cứ giở giời lại đau. Sức ép bom vào ngực, trở thành căn bệnh "tắc nghẽn phổi mãn tính" phải dùng thuốc khó thở đến hết đời. Cũng bởi mưới năm sống nơi chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ "rừng sâu, nước độc" ác liệt và cực khổ, mắc thêm căn bệnh chảy máu bên trong... phải cắt bỏ 2/3 dạ dầy ".
 
     Khi cả nước hòa bình giải ngũ trở về quê hương, mang theo một tấm thân vẫn đầy di tích chiến tranh: thương vong và bệnh tật. Những tưởng đã được sống phẳng lặng, bình yên? Nhưng nào có được. Số phận nghiệt ngã - Gia đình Phạm Ngọc Thái khi đó sống ở phố Khâm Thiên, Hà Nội. Con phố mà thời chiến tranh bị Mỹ đem bom B52 rải thảm trong 12 ngày đêm năm 1972, với dã tâm hủy diệt để biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá. Ngôi nhà gia đình cùng hàng trăm ngôi nhà khác trong phố bị bom san phẳng. Người cha của anh đã bị chết vùi trong đống bom ấy. Còn lại bà mẹ già và hai người con (hai em trai nhà thơ), chưa đến tuổi trưởng thành. Cửa nhà tan nát... được thành phố dựng tạm cho căn nhà lợp bằng giấy dầu, trát vôi vữa. 
     Thế là trở về với một tấm thân không lành lặn, thoát chết ngoài chiến trường, nhà thơ lại phải cùng người mẹ già lao vào kiếm sống nuôi gia đình. Song, Phạm Ngọc Thái là một con người có chí khí rất quyết liệt: Ngày ngày phải lao động kiếm tiền sinh nhai. Anh vẫn quyết chí theo học hàm thụ tại trường Đại học ngoại thương, rồi trở thành người cán bộ của ngành ngoại thương Việt Nam - Vì năm 1967, nhà thơ đã phải bỏ dở cuộc đời sinh viên trường đại học, lên đường vào chiến trường miền Nam chiến đấu. 
     Tưởng rằng vượt được đến thế rồi, cứ vậy mà sống? Nhưng Phạm Ngọc Thái lại có ham vọng lớn trên con đường văn chương, đặc biệt là thi ca:  Ngày đi làm, tối về viết văn, làm thơ... theo đuổi cả ngành sân khấu kịch bản, viết tiểu thuyết. Cứ thế, kể từ khi xuất bản tập thơ đầu tay: "Có một khoảng trời", Nxb Hà Nội 1990 - Đến nay cũng ngoài 30 năm, anh đã cho xuất bản:
-  11 tác phẩm thơ và bình luận văn học
-  2 tiểu thuyết
-  5 kịch bản sân khấu ( 2 dài, 3 ngắn )
     Hiện là Hội viên Hội nghệ sĩ sân khấu thủ đô. 
 
 

                  TÓM LƯỢC QUA CÁC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG                    
    Con đường văn chương Phạm Ngọc Thái cũng đầy gập ghềnh, sóng gió. Năm 1994 anh cho xuất bản tập thơ thứ hai "Người đàn bà trắng", Nxb Thanh niên. Tuy tập thơ vẫn còn nhiều khiếm khuyết, nhưng cũng có ít bài rồi trở thành đặc sắc và hay, như: Người đàn bà trắng, Tiếng hát đời thường, Nỗi trăn trở người đi tìm vàng...
      Sau khi tung tập "Người đàn bà trắng" rộng rãi ra văn đàn, Phạm Ngọc Thái mới biết rằng: Con đường thi ca không phẳng phiu, đơn thuần như anh tưởng? Về bối cảnh xã hội: Từ các văn sĩ đến Hội nhà văn: Tính cách và nhận thức thơ ca ở đương thời cũng còn rất tạp-pí-lù, trắng đen lẫn lộn? Dù có làm được nhiều thơ hay đi chăng nữa, thì chân dung cũng chỉ đắm chìm trong sương khói... mịt mù... 
     Nghĩ vậy, anh quyết định dừng lại không vội xuất bản tiếp. Một mặt lao vào sáng tác (cả thơ và kịch), đồng thời chọn những bài thơ đặc sắc, đem photo để tung vào trong đương đại. Chủ yếu ở những hội văn chương, báo chí và sinh viên trong các trường đại học tại thủ đô. Chơi tự do hết tệp này đến tệp khác - Những năm tháng đó, tên tuổi cùng  thơ ca Phạm Ngọc Thái nổi lên nhiều trên văn đàn Hà Nội. Thiên hạ mang thơ anh đi lan ra các tỉnh thành khác.
 
     Cứ thế 15 năm sau, Phạm Ngọc Thái mới cho xuất bản tập thơ thứ ba: "Rung động trái tim", Nxb Thanh niên 2009 - Đến 2012 anh thu gom lại số đã sáng tác chưa xuất bản, tới gần 300 bài thơ tự do hiện đại, cho ra tiếp tập "Hồ Xuân Hương tái lai", Nxb Văn hóa - Thông tin.
      Từ đấy Phạm Ngọc Thái viết được nhiều thơ hay và cho xuất bản liên tục:
-   Phê bình và tiểu luận thi ca                                      2013
-   Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại     2014  
-   Thơ tình sinh viên                                                      2015
      Tập thơ này do một Công ty sách com măng xuất bản, bán ra thị trường. Nhà thơ được hưởng tiền nhuận bút.
-    Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam   2019

 
     Đồng thời cùng với thi ca, anh cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tiên:
-    Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm                            2019
      Tiểu thuyết cũng do một công ty sách com măng xuất bản. Nhà thơ được hưởng tiền nhuận bút. 
      Nhưng bất ngờ một tai họa đau đớn đã giáng xuống cuộc đời Phạm Ngọc Thái? Đứa con trai thứ của anh mới 27 tuổi đầu, vừa tốt nghiệp tấm bằng thạc sỹ, đang làm việc ở FPT bị đột quị... qua đời vào ngày 22.7.2019 - Nỗi đau quá lớn vượt qua sức chịu đựng của nhà thơ. Anh  ngất đi... sống lại nhiều lần...  
     Khi tỉnh, e mình đột ngột đi xa - Phạm Ngọc Thái vội vã làm bản thảo và cho xuất bản "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019 - Một tuyển thơ dầy 368 trang với hơn 200 bài, chọn lọc từ trong đời thơ tác giả.
 
     Sau khi sách ra đời. Vào ngày 26.12.2019, nhà thơ viết một lá thư tâm huyết kèm với tác phẩm, gửi tới tay ông Chủ tịch cùng Ban chấp hành HNVVN và ngài Viện trưởng "Viện văn học Việt Nam". Tác giả khẳng định về tầm vóc tác phẩm của mình. Lá thư có đoạn viết:
     " Đánh giá về Tuyển Thơ Chọn Lọc? Với nhận thức bản thân, tôi tin chắc chắn rằng: Trong dãy thi sơn có nhiều ngọn, tôi đã lên đến điểm đỉnh một ngọn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ gì đó !... Nhất là thơ tình, của thi ca hiện đại Việt Nam ".
    Hay là:
     " Nay tôi đã ngoài 70 xuân, sức khỏe cũng không tốt, chắc chẳng còn sống bao lâu nữa? Nếu để cho tôi nói lên tiếng nói từ trong thẳm sâu tâm tư của lòng mình, thì tôi xin nói rằng: Trong văn hiến nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du - Thì thơ ca hiện đại Việt Nam cũng có Phạm Ngọc Thái - Vâng, tôi tin chắc như vậy! ".
 
       Trở lại với vấn đề về đứa con trai đã mất của anh? Đau thương, quằn quại chùm lên cuộc đời - Nhưng với sức sống mãnh liệt của một chiến binh: Một lần nữa tinh thần sáng tác văn chương Phạm Ngọc Thái lại vùng lên... 
      Trong vòng đôi ba tháng, anh đã hoàn thành để xuất bản cả một tập thơ 45 bài: "CHA KHÓC CON", Nxb Hồng Đức 2020 - Với tâm nguyện của một người cha, đau đớn vì mất đứa con yêu: Phạm Ngọc Thái muốn đưa con vào trang sách, để đứa con trai của anh được sống mãi cùng non sông, đất nước. Đó là một TÁC PHẨM THƠ KHÓC viết bằng máu và nước mắt, mà nhà thơ đã để lại cho nền văn học nước nhà.
     Cùng trong năm, một tiểu thuyết nữa của Phạm Ngọc Thái lại ra đời:
-   Bộ tiểu thuyết hai tập "Chiến tranh và tình yêu", 2020 
      Do một công ty sách liên kết với NXB Hồng Đức phát hành trong quân đội và bán ra thị trường.
      Cuối năm 2020, Phạm Ngọc Thái cho xuất bản tiếp tập thơ: "64 BÀI THƠ HAY" - Theo anh nói, là tập thơ cuối của đời anh.
      Như thế trong vòng hai năm 2019 - 2020, Phạm Ngọc Thái đã cho ra đời 6 tác phẩm văn học (4 thơ, 2 tiểu thuyết). 
 

                 CUỘC ĐỜI NHÀ VĂN QUYẾT LIỆT ĐẦY SÓNG GIÓ
      Đúng là một chiến binh. Trong đời thường và cả trên lĩnh vực văn chương, dù gặp phải bao hoạn nạn, ngăn trở... nhưng sức chiến đấu thì thật mãnh liệt. Phạm Ngọc Thái cũng rất tài hoa. 
     Nhấn mạnh về mấy tác phẩm:
-  Năm 2014 anh cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại", Nxb Văn hóa - Thông tin: Tác phẩm dầy 372 trang với 120 bài thơ tình, 34 bài tiểu luận của các tác giả là những văn nghệ sĩ và nhà giáo bình thơ đặc sắc và hay cùng chân dung anh.
-  Đến 2019 nhà thơ lại cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên.
 
     Bình luận về hai thi phẩm có tầm vóc này, Nguyễn Thị Hoàng tôi đã nhận định:
  "Tập Nhà Thơ Lớn thời đại" của anh ra đời đã hơn sáu năm, giữa văn đàn của Thủ đô ngàn năm Văn Việt... Đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Ngày càng được khẳng định chân giá trị của tác phẩm.
     ... Qua tháng năm, con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái vẫn tung cánh bay, ngày càng cao, càng bay xa !? ".
     Và nhấn mạnh:
    " Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ - Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài cuộc chiến tranh xưa? Giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã lại từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam".
             ( trích tiểu luận "Tập 64 BÀI THƠ HAY và sự nghiệp thi ca Phạm Ngọc Thái" - Nguyễn Thị Hoàng ) 
      Đó chinh là tầm vóc "Tuyển thơ chọn lọc" 2019 và chân dung tập "64 bài thơ hay", Nxb Hồng Đức 2020 của anh.

 

                  THÁI ĐỘ BAN CHẤP HÀNH HNVVN VỀ 
                   TÁC PHẨM THƠ CA PHẠM NGỌC THÁI
      HNVVN là một tổ chức văn chương cấp quốc gia. Ban chấp hành cũng là những người được ăn lương nhà nước, để làm việc quốc gia - Nhất là ông Chủ tịch, người lãnh đạo cao nhất HNV. Hàng năm vẫn lấy nhiều tỷ tiền của nhân dân, lo cho hoạt động Hội - Đương nhiên cần có ý thức, trách nhiệm quán xuyến về sự phát triển, hưng vong... đối với nền văn học đương thời của cả nước.     
        Nhưng dưới thời nhà thơ Hữu Thỉnh làm Chủ tịch Hội nhà văn? Khi nhà thơ Phạm Ngọc Thái cho xuất bản, phát hành những tác phẩm thi ca sừng sững trong xã hội:
-   PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại                         2014
-   PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam   2019 
 
     Ban chấp hành và kể cả những nhà thơ sừng sỏ, danh tiếng nhất đương thời của HNVVN - Không một tiếng phủ nhận, phản bác lại trên báo chí !?  Chính nhà thơ đã gửi đến tận tay ông Chủ tịch và Ban chấp hành: Tác phẩm "Tuyển thơ chọn lọc" 2019, kèm với lá thư khẳng định tầm vóc thi nhân lớn của anh, đối với nền thi ca đất nước - Và từng nói: Nhà thơ Phạm Ngọc Thái sẵn sàng đối diện với Ban chấp hành... để khẳng định về "chân dung nhà thơ lớn thời đại" của mình cơ mà?  
    Ông Chủ tịch Hữu Thỉnh vẫn im hơi, lặng tiếng. Việc ngài Chủ tịch nhất định bưng tai, bịt mắt, lảng tránh như thế? Trước lời đề nghị chính đáng của một nhà thơ, khẳng định về tầm vóc tác phẩm của mình (ít nhất là có giá trị đối với nền văn học quốc gia): Không những thiếu tính nhân văn với cá nhân nhà thơ, còn thế hiện sự chưa có đầy đủ trách nhiệm với cả nền văn học đất nước. Sự yếu kém của một văn sĩ già còn nhỏ mọn.
 
      Nếu cần xác định, xin lấy chân dung thơ của các nhà thơ tên tuổi hàng đầu của HNVVN đương thời - Đưa ra qua báo văn nghệ và website của HNVVN - So với chính chân dung nhà thơ Phạm Ngọc Thái? Chỉ cần với hai tác phẩm:
  1.  "Tuyển thơ chọn lọc"        2019
  2.  Tập thơ " 64 bài thơ hay", 2020
   -  Tôi đảm bảo rằng, chân dung thi ca của các nhà thơ HNVVN đương thời sẽ thấp hơn Phạm Ngọc Thái !!!
     Hãy coi lại bản thách đấu HNVVN của Phạm Ngọc Thái đã đăng trên vài chục trang mạng trong nước và Cộng đồng người Việt ở Hải ngoại nhiều năm trước - Anh đã thách đấu cả 50 nhà thơ có tên tuổi nhất của HNVVN đương đại đó! 
 
     Đây là bản được nhà thơ cho đăng trên một website lớn của người Việt ở Hoa Kỳ. Mời mở ra đọc:
                    http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?&m=316059&mpage=8
       Nửa thế kỷ nay - Theo tôi: Về thi ca, chưa nhà thơ nào của HNVVN đương thời có thể vượt qua nổi chân dung của cố nữ sĩ Xuân Quỳnh !? Tôi cũng chưa thấy có vị nào viết được một bài thơ thật hay, tầm vóc sống trường cửu mọi thời đại như bài "Thuyền và biển" của Xuân Quỳnh - Bà tuy vẫn mới chỉ là một "nhà thơ sáng giá", chưa đạt được tầm vóc nhà thơ lớn - Nhưng cũng đã để lại cho nền văn học nước non một mảng thơ. 
 
     Nguyễn Thị Hoàng tôi từng viết:
- Những bài thơ tuyệt hay trong thi đàn xưa nay. Không kể KIỀU bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay như: 
      Đèo Ngang của BHTQ;   Làm Lẽ, Cảnh Thu - Hồ Xuân Hương;   Thương Vợ - Tú Xương;   Thu Điếu - Nguyễn Khuyến;   Tràng Giang - Huy Cận;   Tranh Lõa Thể - Bích Khê;   Tương Tư - Nguyễn Bính;   Đây Thôn Vĩ Dạ, Mùa Xuân Chín, Bẽn Lẽn - Hàn Mặc Tử;   Hai Sắc Hoa Ti Gôn - TTKH.;   Thuyền Và Biển - Xuân Quỳnh....
      Thơ hay bậc nhất của nền văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm như thế! Vượt qua mọi thời đại - Đó là loại thơ thuộc hàng đẳng cấp cao nhất.
       Trong tập "64 BÀI THƠ HAY" của Phạm Ngọc Thái - Phải có tới 5 bài vào loại rất hay hàng đỉnh, tương tự tầm những thi phẩm vô giá của ngàn năm văn hiến:
   .   Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối  /  Anh đứng nhìn theo bóng chim câu  /  Người đàn bà trắng  /  Làm ma em vợ  /  Tiếng hát đời thường.
     Vài chục bài cũng vào loại hay, xuất sắc:
   .   Khoảng trôi trong lá  /  Em về biển  /  Em bán xoài  /  Đất nước tôi yêu  /   Khóc bên Hồ Núi Cốc  /  Váy thiếu nữ bay  /   Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau  /  Anh vẫn ở bên Hồ Tây  /  Khóc Hàn Mặc Tử  /  Trước Núi Mỹ Nhân  /  Em ơi! Thành phố lại mưa  /  Nghe tin em sốt  /   Phố thu và áo trắng  /  Một góc Hồ Tây,  v.v...
      Số bài khá khác cũng rất súc tích, giàu hương sắc... đều thuộc trong dòng thơ có khả năng sống trường cửu thời gian. 
 
 
     Chưa nói đến cả "Tuyển thơ chon lọc", Nxb Hồng Đức 2019 của anh, với trên 200 bài thơ chọn trong đời thi ca, rất nhiều những áng thi xuất sắc - Dựng lên như cả " Trường thành thi ca" đối với nền thơ hiện đại Việt Nam.
-    Đấy, tôi đố cả Ban chấp hành của HNVVN hiện nay - Từ nhà thơ cách tân Nguyễn Quang Thiều - Thần đồng, nhà viết "Chân dung và đối thoại" Trần Đăng Khoa... Phủ nhận được  giá trị tầm vóc lớn của tập "64 BÀI THƠ HAY" Phạm Ngọc Thái !?
      Tôi cũng khẳng định, với những  tác phẩm thi ca để lại cho nền văn học: Phạm Ngọc Thái đã đạt đến tầm bậc "Chân dung nhà thơ lớn thời đại".  Rất lớn!
       Không phải nhà thơ cũng có điều kiện, mang lại danh thơm cho cả nền thi ca hiện đại của nước nhà sao? Như Đại thi hào Walt Whitman nước Mỹ - Chính Ông cũng đã mang lại danh thơm cho cả nền thơ ca Mỹ đó thôi.
 
     Thưa Tân chủ tịch HNVVN Nguyễn Quang Thiều!
-  NHÀ THƠ CCB PHẠM NGỌC THÁI hiện ngụ tại Ngõ 83 phố Quán Thánh, Hà Nội * Số ĐT 038 302 4194 đã nói:  Sẵn sàng đối diện với Ban chấp hành HNVVN và Ban Tuyên giáo Trung Ương của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam - Qua các tác phẩm đã xuất bản, để khẳng định chân dung nhà thơ lớn của mình, đối với nền thi ca hiện đại nước non.  
 
                              Viết tại Thăng Long năm Tân Sửu, 2021
                                             Nguyễn Thị Hoàng
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2021 12:24:22 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 21.04.2021 21:51:54
 
                     CHÙM THƠ CHỌN 4 PNT
 
              VỚT TRĂNG
 Trăng khuya song chếch nghiêng hè rớt
Ta vớt trăng vào cái túi thơ
Suông canh cũng chỉ mình ta thức
Em ngủ bên chồng, có nhớ xưa?


 
           XUÂN VÀ VỢ  
Xuân ngẩn ngơ rơi xuống mái nhà
Chim bay bay mãi cõi bao la
Vợ ơi! Ngày tháng lo kiếm chợ
Anh cười ra lệ, chép thành thơ                        
 
 
    CÂY HOA BẰNG LĂNG TRONG MƯA
Cứ cô đơn tắm sũng dưới mưa trời
Bằng lăng đứng một đời tím tái
Em hay là anh đấy?
Mà con tim…
                      rơi giữa mưa bay
 
 
 
        ĐÔI MẮT NHUNG EM
Hoàng hôn buông xuống, trời nhạt nắng
Đôi mắt nhung em đắm cả chiều
Tay thon vò xé nhành hoa trắng
Em buồn? Trời đất bỗng như xiêu ...

                                  
      NGƯỜI ĐÀN BÀ HOÁ THÂN
Người đàn bà đi quẹt qua cửa gió
Làm cháy bùng cả tim và da
Mắt em ngời trăng, môi em nhóm lửa
Em hoá thân
thành
Đức Phật Bà!


                                         
           HOA VÀ EM
Hoa hồng đỏ thắm môi em
Nở chênh vênh ở trên bàn lẻ loi
Hoa như em đấy, em ơi!
Cô đơn mà để cho đời ngẩn ngơ…
 
*   Cảm tác nhìn bông hoa cắm trong chiếc cốc đặt trên bàn.

                                                          
               TRÁI EM
Em xinh như nguyệt mọc đêm đêm
Ấp ủ hoa thơm khắp thân mình
Vẫn biết trong em loài trái lạ
Anh vào đó hái,
                          có được không?

                                          
           EM BÉ CẦU BƠ
 Tối ba mươi, lò than phở đã nguội rồi
Em bé cầu bơ, không nơi ngồi sưởi ấm
Đêm giao thừa, người chúc nhau nhiều may mắn
Dưới gốc cây già một bóng nhỏ nhuộm màu đen.
                                            Đêm xuân 1991
 
 
       THÔN NỮ TẮM DƯỚI TRĂNG
Em để truồng “luân lý” tắm trong ao
Thế giới vỗ bạch bì giang háng hạc…
Nguyệt ở trên soi nguyệt nằm dưới nước
Thiên tạo rành rành. Nhân sướng sao?

                         (Một đêm trăng ven đô) 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:36:49 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 22.04.2021 17:32:14
               
                              MỘT TUYỆT PHẨM THI CA
                                                               Nguyễn Đình Chúc
 

         VÁY THIẾU NỮ BAY 
 
                               Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
            Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
                                                           Nguyễn Du
                                 *
 Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào cung cấm của em...

“Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm

Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bàu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh

Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.

 
   
Lời bàn:  Có nhà thơ nào đã ví "cái" của người thiếu nữ như một cổng trời, qua cổng trời đó là vào một động thiên thai. Hay như cách tả của bà Hồ Xuân Hương: Của quí của chị em thật trăm hình vạn trạng? Nhiều bài làm ta phải sởn gai óc. Thí dụ trong bài "Động Hương Tích":
                Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
                Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
     Khi thì bà mượn cái quạt để tả về "chỗ ấy":
                Chành ra ba góc da còn thiếu
                Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa...
     Giờ ta đến với thơ của Phạm Ngọc Thái: Bài "váy thiếu nữ bay" này, anh lại ví cái của em là cả một...  “khoảng trời”:
                Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
     Đến thiên nhiên cũng phải ngưỡng mộ mà say đắm:
                Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
                Tìm vào cung cấm của em...
     Cũng đúng thôi! Trái tim ta khi cảm xúc còn rung động, huống hồ thiên nhiên? Nhưng điều mà tôi muốn nói ở đây, viết ra câu thơ như thế là... tác giả đã mạnh bạo. Từ câu trước dùng hình tượng gợi cảm: Gió réo rắt, nắng bồn chồn /-  Câu sau lại rất đời:
               Tìm vào cung cấm của em...
     Đọc lên ta thấy gai gai... nhưng ngẫm kỹ thì sướng thơ. Sang đến khổ thứ hai,  thơ mang theo tính triết lý:
                  “Bờ bãi con người” em trổ hoa, trái ngọt
                  Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
      Trong nhân sinh quan ta thấy: Rõ ràng nhà thơ đứng về phía nhân gian. Ca ngợi tình yêu, sự sống ở chốn cộng đồng. Câu thơ: “Bờ bãi con người” em trổ hoa,  trái ngọt/-  Nghĩa là vậy. Ta thường nói, sở dĩ tác phẩm của Nguyễn du sâu sắc, bất hủ - Bởi Người đã có hàng chục năm phải sống lăn lộn nơi dân dã, thấu hiểu nỗi tình kiếp chúng sinh mà viết nên... Kiều! Tôi nghĩ, một quan điểm rất cơ bản trong thi ca, chính là thái độ nhân sinh và thế giới quan của nhà thơ như thế nào? Nó có ý nghĩa rất quyết định tới tấm vóc của một bài thơ hay, cũng như tác phẩm văn chương.
      Xin trở lại bài Váy Thiếu Nữ Bay. Câu thơ vừa nói trên ý rằng, ở nơi "Bờ bãi con người...": Em như hoa trái của sự sống. Sự sống mà không có hoa, trái... thì chẳng có gì hết, sẽ chỉ như cái xác chết. Sau đó để làm rõ hơn về giá trị nhân phẩm về “cái” của em, nhà thơ viết:
                            Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
      Vậy là, hơn một lần... Tác giả lại bộc lộ quan điểm, “cái” của em còn cao hơn, đáng giá hơn hàng bậc đế vương kia !?
      Sau đó, nhà thơ vẫn tiếp tục miêu tả về của quí của em, nhưng ở mức độ rộng và cao hơn:
                             Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài. điện ngọc
                             Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm...
      Dùng hình tượng ví như "lâu đài, điện ngọc" ta cũng dễ hiểu. Cụ Nguyễn Du cũng từng ví của Kiều:
                            Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên
      Còn về ý nghĩa tiến hoá vạn vật trong vũ trụ của thế giới nhân quần, khởi thuỷ và muôn năm cũng là... ở  trong “cái ấy” mà ra cả: Sự sống của nhân loại. Nền văn minh, tiến bộ thế giới đều phải bắt đầu từ đấy !? Về cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Còn tác giả muốn mượn cách nói như thế, để hàm ý những gì nữa... thuộc trong lĩnh vực chính trị xã hội? Thì có lẽ, mai sau đời sẽ bàn thêm. 
      Nghĩa là câu thơ: Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm /-  Mang theo cả ý nghĩa xã hội và tính vũ trụ của thi ca trong đó. Sang khổ thơ ba:
                             Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                             Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
      “Cái” mà đã dấu trong chiếc váy bay của người con gái... lại bao trùm lên cả hồn thời đại, làm say đắm thế gian !? Không phải chỉ bây giờ, từ xa xưa đến mai sau vẫn thế -  Rồi tác giả buông ra một câu hỏi:
                            Có phải đó khúc quân hành nhân loại?
      Để anh chốt lại trong câu thơ kết đoạn:
                            Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
      Ngay từ thuở thiên thai, khi mà người đàn bà còn chưa biết mặc váy... “cái” đó đã có rồi. Nó mãi mãi là một bích phẩm bất hủ nhất... của cả tạo hoá lẫn xã hội con người. Thơ đã mang màu triết học. Nghĩa kết vào nhau rất chặt chẽ.
     Sang khổ thơ cuối cùng – Nhà thơ tung ra một lời phán quyết:
                           Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
                           Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
                           Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
                           Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...
      Câu thơ cuối đã khoá lại bài thơ: Nó mang theo một lời triết lý có ý nghĩa xã hội !? Xin phân tích đôi nét - Bước đầu, tác giả đưa ra một sự lý giải về sự sống:                    
                           Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
      Nghĩa là từ cá nhân tới xã hội phải nhờ có "cái ấy" mới có thể tồn tại và phát triển. Tất nhiên cách nói trong thi ca cũng chỉ có ý nghĩa biểu tượng.  Hàm ý thi ca Phạm Ngọc Thái trong bài thơ này, luôn luôn mang theo tính phản biện có ý nghĩa xã hội? Tác giả đã phát triển sự biện luận ấy thế nào:
                         Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
      Nói là phàm tục, cũng là phàm tục. Nhưng nếu nói "cái" ấy tiên thánh? Thì cũng là tiên thánh - Chẳng thế mà nhà thơ Nga M.Lermôntốp đã viết những câu thơ bất hủ về tình yêu với người đàn bà:
                        Tượng thờ dù đổ vẫn thiêng
                        Miếu thờ bỏ vắng vẫn nguyên miếu thờ.
     Bởi vì với ý tưởng chân chính, khát vọng tình dục… cũng là đỉnh cao của sự thăng hoa trong tình yêu con người. Cái hạnh phúc vô giá. Niềm đam mê vô tận. Nó vừa tạo nên những sướng vui, đồng thời cũng là nguồn gốc của nỗi đau đớn. Nó mang đến ý nghĩa thánh thiện, đức nhân ái và bao dung. Nó chính là hạt nhân của tình lứa đôi. Cho nên Puskin đã nói một câu nổi tiếng, rằng: "Chỉ có tình yêu mới đẩy lùi tội ác"!
      Ở đây tác giả nhấn mạnh về tình yêu gái trai nơi nhân gian, mà anh gọi là "Bờ bãi con người...".  Như trên đã nói, câu cuối cùng đã chốt lại cả bài thơ:
                    Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang...
      Đó là ngòi bộc phá nổ để bảo vệ cho toàn bộ ý tưởng của bài. Nào là:
                   … Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                   … Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
                   … Mênh mông bầu trời say đắm thế gian
                   … Một khoảng trời nghiêng ngửa
     Chỉ để bảo vệ một chủ thuyết của tác giả: Ca ngợi cái kiệt tác mà tạo hoá đã sinh ra trên tấm thân người đàn bà - Thì từ khi có vũ trụ cùng thế giới con người đến nay, có cái gì được coi là vĩ đại hơn "cái" của đàn bà ấy đâu? Dù nhân loại có tiến triển đến hàng triệu năm nữa, nó vẫn vĩ đại nhất!
      "Váy thiếu nữ bay" xứng đáng là một đài thơ. Một tuyệt phẩm thi ca của Phạm Ngọc Thái.
 
                                                    Nguyễn Đình Chúc
                  (Trích "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN", 2019)
            
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.10.2021 15:44:51 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 22.04.2021 21:15:37
 
 
                         MỘT BÀI THƠ THẦN SẦU QUỈ KHÓC
 
                                                                     ThS. Anh Nguyễn
                                        Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia
 

            ĐỘNG BƯỚM

Phút say đắm tột cùng, em mở toang động bướm
Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.

Có ai chưa em đã vào khai phá?
Để bướm vẫy vùng, bướm thoả ước ao
Và khi ấy, em sẽ không còn là trinh nữ
"Bờ bãi đời người"  bướm vẫn lượn như sao.

Thân nhi nữ, một thế giới mênh mông hoang dại
Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
Lạc vào vườn em, trái cấm ngọt hương tươi.

Tình yêu từ đâu anh không biết?
Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền
Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...

Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
Đến lúc cần bướm lại sinh con
Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
Nam-mô-a-di-đà!

 
   Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình:  Đây là một bài thơ tượng trưng. Suốt bài thơ, ta thấy hình tượng gồm toàn những yếu tố tượng trưng "tương ứng cảm quan". Khuynh hướng này do nhà thơ Pháp Charles Baudelaire, một trong những bậc thầy của trường phái thơ tượng trưng châu Âu vào cuối thế kỉ XIX khởi xướng. Theo Baudelaire, sự liên kết giữa vật này với vật khác, giữa con người - cuộc sống với thiên nhiên, đều có thể thay thế nhau bằng biểu tượng. Biểu tượng đó phản ảnh một cách tương ứng sự vật, nhưng không phải do lý trí sắp đặt, mà dựa vào cảm thụ được phát ra từ các giác quan hay tâm linh, gọi là cảm quan. Tôi phân tích đoạn thơ thứ nhất:
                     Phút say đắm tột cùng, em mở toang động bướm
                     Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ
     "Bướm" đã trở thành một biểu tượng ở chốn dân gian, để chỉ "cái" của người đàn bà. Tác giả dùng hình ảnh "động bướm" làm tượng trưng: Ý như đó là "cái hang" ở trên nàng. Ta hãy nghe Bà Hồ Xuân Hương tả về "cái hang" của chị em, qua bài "Động Hương Tích":
                   Bầy đặt kìa ai khéo khéo phòm
                   Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom...
      Hay bài "Hang Cắc Cớ":
                  Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
                  Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
     Tôi không thể bình quá sâu hình ảnh của câu: Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn /-  Bởi phân tích ra nó sẽ bẩn... làm hỏng thơ của bà. Nhưng đọc ta có thể hiểu: khi bà tả "kẽ hầm rêu mốc...", là nói về khe ngách bên trong của bướm bị dơ. Vậy còn "cái gì trơ toen hoẻn"? Phải chăng là... "nhân bướm"? Ví dụ thêm một tình thi khác, bài "con ốc nhồi":
                  Quân tử có thương thì bóc yếm
                  Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
      "bóc yếm" là hình ảnh mô phỏng về sự ve vuốt, xoa nắn vòm ngực, phía trên người con gái - Còn "ngó ngoáy lỗ trôn", hình tượng tả sự nghịch ngợm bộ phận dưới v.v.
      Ở đây, nhà thơ Phạm Ngọc Thái diễn tả cái bướm đã có từ thời tiền sử: Giữa khu rừng rậm rạp, nguyên sơ /-  Nghĩa là nó do tạo hóa đúc tạc nên. Đến câu thơ 11-12 nhà thơ còn láy lại một lần nữa:
                    Tự thiên thai chẳng phải vẽ vời nắn gọt
                    Lạc vào vườn em, trái cấm ngọt hương tươi
       Bướm của em như hoa trái đất trời, "ăn" vào là nhớ mãi. Từ nguyên thuỷ đến bây giờ chẳng cần tiến hoá thêm, thế mà:
                    Nàng thơ thẫn thờ si mê hưng phấn
     Ngay từ buổi thiên thai cái "động bướm" ấy đã hoàn bích rồi. Ai nhìn thấy hay chỉ cần nghĩ tới... cũng phải hưng phấn, rạo rực trong lòng. Đến câu thơ thứ tư, hình tượng thơ còn mang theo tính triết học:
                    Bướm của em chứa cả thánh thần lẫn yêu ma.
      Bướm em vừa siêu phàm tựa thánh tiên, lại vừa như có ma quỉ: Làm ta say mê, thần tượng và khát vọng. Nhưng cũng có khi vì si mê quá hoá mù quáng, như bị "ma dẫn lối quỉ đưa đường"... tự huỷ hoại cuộc đời mình. Tức là, tình yêu mang đến cho ta niềm hạnh phúc vô biên, đưa tâm hồn ta hoan lạc ở chốn bồng lai, lại cũng có thể làm cho trái tim ta đau khổ, tan vỡ vì thất vọng! Đến đoạn thứ ba, tác giả tiếp tục phát triển:
                     Thân nhi nữ, một thế giới mênh mông hoang dại
                     Cấu thành bên trong bao yếu tố mĩ miều
      Cái thế giới mênh mông hoang dại đó, thuộc hình ảnh thơ trừu tượng. Tác giả miêu tả sự toàn bích của tấm thân người nhi nữ từ trong ra ngoài, để khẳng định sự vĩ đại của tạo hoá! Cho dù xã hội loài người có phát triển hàng vạn năm nữa, văn minh tiến bộ đến đâu... cũng không thể so sánh nổi. Trong sự vĩ đại đó, thì việc sinh thành ra "bướm" đàn bà là điều kì diệu nhất: Một thiên kiệt tác!
      Quay trở lại với đoạn thứ hai, nhà thơ buông ra một câu hỏi:
                   Có ai chưa em đã vào khai phá?
     Nghĩa là em đã hiến dâng cái của em cho người đàn ông nào chưa? Sau đó chính anh lại tự giải nghĩa:
                   Để bướm vẫy vùng, bướm thỏa ước ao
     Đâu có phải chỉ một mình người con trai sướng? Bởi khi hiến dâng cho tình yêu, cũng chính là khát vọng của người con gái để trở thành... đàn bà:
                   Khi ấy em sẽ không còn là trinh nữ
                   “Bờ bãi đời người” bướm vẫn lượn như sao...
      Thơ đã đi sâu vào phạm trù đời sống mà diễn tả. Dĩ nhiên là đời sống ấy phải có cả đàn ông, nhưng thường trong nhiều phạm trù, người ta chỉ thiên nói về nữ tính. Nếu không có cái bướm đàn bà, cuộc sống của ta sẽ không còn nghĩa lí.
      Đến đây, tôi xin nói đôi nét về một số bài thơ khác dạng tương tự như "Động bướm" -  Phạm Ngọc Thái có một số tình thơ lãng mạn vào loại khá kỳ dị. Có thể kể ra vài bài đặc sắc, nổi lên như: Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt; Xem tranh bán loã thể; Váy thiếu nữ bay - "Động bướm" chỉ là một bài điển hình trong số những tình thi đó.
      "Đàn bà đẹp nhất là khi đèn đã tắt"  - Tả về hình ảnh người yêu khoả thân trong đêm tối:
                 Ta gặp nhau chỉ trong chốc lát
                 Giữa đêm tối anh lần vào em thăm thiên thai...
     "thiên thai" chính là cái ấy! Vậy "giữa đêm tối anh lần vào thăm thiên thai của em..." để làm gì? chẳng nói thì ai cũng biết. Thơ tả vào dục vọng mà vẫn rất mềm mại, đáng yêu. Hay là:
                  Hôn đôi trái em tưởng mình du ngoạn khắp không trung
                  Chơi dỡn nguyệt một thiên đường tuyệt thế
                  Mong trời cứ đêm để cùng em vui chút nữa.
      Hạnh phúc trong tình yêu hoà trong niềm sướng vui cùng thân thể người yêu. Nhà thơ tả thẳng vào sự khoái cảm, nhưng khi đọc ta vẫn không thấy sượng. Hình ảnh "Hôn đôi trái em..." diễn tả sự say sưa, man mê đôi tí người yêu? lại ngỡ như mình đang du ngoạn, bay bổng giữa không trung. Hoặc là hình ảnh "chơi dỡn nguyệt", giây phút tột cùng khoái lạc trong quan hệ nam nữ - Để rồi tác giả buông một câu khẳng định:
                 Đàn bà đẹp nhất là ở trong đêm tối
                 Để nhớ nhau suốt đời...
     Ta lại nhớ tới câu ca dao trong dân gian:
                 Dao đâm vào thịt thì đau
                 Thịt đâm vào thịt nhớ nhau suốt đời
     Cuối bài tác giả đã kết:
                 Đêm tắt đèn thành ánh sáng của thơ tôi!
     Câu thơ bộc lộ một thái độ. Có thể nó hàm chứa về một phản ứng nào đó có ý nghĩa xã hội? Như ta thường nói về bà Hồ Xuân Hương, rằng: Tư tưởng bên trong thơ của bà là bộc lộ một thái độ phản kháng sự đè nén, hủ lậu của chế độ phong kiến đối với người phụ nữ. Thì đây, chính câu thơ là sự bùng nổ... có tính xã hội của nhà thơ?
    Tôi nói sang bài "Xem tranh bán loã thể" - Bài thơ đã được nghệ sĩ Anh Trần bình là một kỳ tác thi ca! Có những câu khi đọc lên ta cảm thấy gờn gợn... Không phải nó tục mà vì tác giả dùng hình ảnh, những từ ngữ quá thực. Nhưng cái quá thực ấy lại chứa chất cả tính nhân loại và mang màu sắc triết học, thành thử câu thơ sâu và rất hay nữa. Thí dụ:
                  Nàng gieo hoa và ý nghĩa loài người
                  Nhưng cũng đẻ cả chiến tranh và hoà bình ra từ trong bụng.
     Nghệ sĩ Anh Trần đã phân tích những câu thơ đó, như thế này:
 -   Sâu sắc và hay. Ý của câu trên ta thấy rõ rồi - Người đàn bà là hoa, là ý nghĩa tồn sinh của cuộc sống xã hội và nhân loại. Nhưng còn câu dưới? Không phải chỉ muốn nói rằng, em có khả năng mang thai trong bụng rồi sinh đẻ, tất nhiên là ra con người. Rồi giống người ấy sẽ mang đến cả chiến tranh và hoà bình.
     Mặc dù phải có cả đàn ông thì em mới đẻ được. Ở một phạm trù rộng lớn hơn, tức là: Tình yêu và đàn bà sinh ra cả khổ đau lẫn hạnh phúc, cũng như chiến tranh và hoà bình.
     Cho nên mới nói: Thơ Phạm Ngọc Thái cô đọng và rất sâu sắc!
     Khi tác giả tả thẳng:
                   Lui xuống dưới nàng một rừng sâu um tùm che hang động
                   Lên trên nàng đôi mỏm núi trắng vô biên
      Vẫn là tả về vú và bướm, nhưng sử dụng phương pháp biểu tượng. Cái ở bên dưới là một hang động, muốn vào nó phải đi qua một khu rừng sâu rậm rì, um tùm. Còn cái ở trên là đôi mỏm núi trắng xoá, vô biên - Nghĩa là vú của nàng như cả bầu trời vậy.
     Trong những bài thơ kỳ dị ấy, đặc biệt là bài "Váy thiếu nữ bay" - Anh Nguyễn Đình Chúc khi bình đã ca ngợi là Tuyệt phẩm thi ca! Bài thơ mô phỏng về cái bên trong cái váy của người thiếu nữ, nhưng được nhà thơ đi sâu về ý nghĩa đời sống xã hội để diễn tả:
                 “Bờ bãi con người”  em trổ hoa, trái ngọt
                 Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
     Sau đó phát triển rộng sang tính nhân loại:
                 Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
                 Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian...
     Hay là:
                 Có phải đó khúc quân hành nhân loại
                 Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh
     Bọc chứa cả tính vũ trụ:
                 Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm
      Ta hãy nghe tác giả kết bài:
                  Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
                  Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang
     Nó được cất giữ một ý tưởng rất mạnh mẽ. Nhân sinh quan xã hội của nhà thơ.
     Ngòi nổ trong câu thơ cuối đó phát hỏa làm cháy bùng cả bài, và bảo vệ luận thuyết của tác giả - Ca ngợi cái kiệt tác mà thượng đế đã sinh ra trên thân thể người đàn bà! Nó là ngọn nguồn, khởi điểm cho cả chính trị và triết học. Ý tình thơ thật súc tích, càng vào sâu càng thấy hay!
     Tôi trở về với bài "Động bướm" -  Tác giả tả về cái bướm? Nhưng không phải phải chỉ để cho sướng... cho khoái... mà thơ còn ôm chứa tính nhân bản sâu sắc.
     Xin trở lại với đoạn thơ thứ tư. Gớt đã viết: "Khởi thuỷ là hành động" - Nhưng ở đây có lẽ phải nói: "Khởi thuỷ là tình yêu"! Anh tự hỏi:
                   Tình yêu từ đâu anh không biết?
                   Mà rung cảm tâm hồn, lay động trái tim!
    Để rồi anh triết lý ở hai câu thơ sau đó:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền
                   Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ...
     Ta có thể mường tượng hình tượng về những con bướm, mà bướm đây là bướm cái - Cứ đêm đêm nó lại vờn bay quanh ta trong phòng ngủ, để làm gì? Đấy, tác giả tả về cảnh chăn gối vợ chồng hay trai gái. Suy cho cùng, nếu em chẳng có bướm thì thế giới này sẽ hoá rồ, hoá dại và... cũng chẳng làm gì có tình yêu !?
      "Đêm đêm bướm thường bay ra trong phòng ngủ..." /- Hình ảnh của câu thơ ý nhị, dí dỏm, gây cho ta sự khoái cảm trong tâm hồn. Một biểu tượng đời thường ở chốn phòng the. Ban ngày thì chị em thường cài then, khoá trái… để đêm đêm mới mở cửa, rút then... cho anh em vào tha hồ khám phá. Đoạn thơ xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn tình yêu. Tất cả đều bắt đầu từ... bướm:
                   Nhưng yêu nhất là bướm em, có sức chinh phục diệu huyền
      Lời thơ diễn đạt có vẻ nôm na, chân chất, vẫn ý nhị và sinh động. Nhà thơ kết luận:
                      Bướm của em trên đời mãi còn quí giá
                      Đến lúc cần bướm lại sinh con
                      Không lời thơ nào tả hết được vẻ đẹp bướm em.
                      Nam-mô-a-di-đà!
     Cái "bướm" ấy không phải chỉ mang lại cho ta sự sung sướng và hạnh phúc? Bướm còn để sinh con, bảo tồn nòi giống! Nghĩa là, không có bướm thì không có giống nòi - Mới thấy, giá trị nhân sinh của bướm thật là cao cả! Bằng các yếu tố của thơ tượng trưng, nhà thơ đã đi sâu vào thế giới tâm linh để mô tả. Từ cái tên đã có trong dân gian, phát triển sang phạm trù tình yêu rồi đời sống xã hội con người. Một tình thi chỉ xoay quanh về "cái" của người đàn bà mà nói được đủ điều, sâu sắc, thăng hoa - Thiết nghĩ, nó đã đạt vào loại, là một bài thơ thần sầu quỷ khóc vậy!
 
                                                  Anh Nguyễn
                   (Trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN ", 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.04.2021 21:22:41 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 23.04.2021 18:19:36
 
 
                                 MỘT THIÊN TÌNH CA MÙA THU
 
                                                   Tuyết Thúy


         SÁNG THU VÀNG
                          Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió

                         (Kỷ niệm Bích Đào)

Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...                       

                            
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
                  bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước…

Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa.

Người con gái đã thành chính quả
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian, đổ vỡ cả mùa thu!

Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn

Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười, hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi… cuộc sống buồn tênh.

Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà! Em nuốt mùa thu tan...

 

Lời bình:  “Sáng thu vàng” được sáng tác trong khoảng không gian thiên nhiên, bên câu chuyện tình như truyền thuyết. Đó là một buổi sáng đô thành dịu mát, có:
                    Ông lão ngồi bên gốc cây,
                                     bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
      Chữ "vói" nghe như tiếng sáo trúc réo rắt vút lên trong mùa thu. Ở bên hồ, bà xúc tép "váy khều khào nước...". Đô Thành hôm nay đang ngày càng trở thành một thành phố công nghiệp hiện đại, thương mại hoá, thị trường kinh tế hoá. Song, tình thơ lại gợi cho ta nhớ về một Hà Nội của ký ức đã xa xưa.
      Sang đoạn thơ ba, câu chuyện tình mùa thu thực sự mới được bắt đầu - Nhưng nó đươc nối với đoạn thơ hai, bằng hai câu:   
                    Một thời xa lắc
                    Em nghiêng chao về một thời xa
     Cả một mùa thu nghiêng chao theo người con gái, nhắc lại một thời đôi trai gái từng hạnh phúc yêu nhau. Hình ảnh của người con gái hôm nay được hiện lên:
                    Người con gái đã thành chính quả! 
      Có nghĩa, giờ đây nàng đã thành một người đàn bà trẻ. Như qui luật sinh nở của tạo hoá: Thiếu nữ năm xưa đã khai hoa, kết trái. Hai chữ "chính quả" nghe như có cả tiếng kinh nguyện của chùa chiền, báo về sự đắc đạo của nàng. Một sự chuyển hoá từ tiết trinh sang tiết hạnh. Có lẽ lúc này khi gặp lại người tình xưa ấy, lòng nhà thơ đã vấn an nơi chốn cửa thiền, nên ngôn ngữ thi ca mới chứa chất tính phật đài như thế. Cả đến câu sau khi anh miêu tả:
                    Phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha
     Năm tháng tất thảy đều không tránh khỏi qui luật rêu phong. Nói đến khối tình trần tục mà thơ đượm màu sắc phật. Ta hãy nghe tác giả tả về nàng:
                    Đôi mắt em bóng trúc bay xoà...
      Đây là đôi mắt đẹp của mùa thu thăm thẳm, mơ màng. Bóng trúc phủ trong đôi mắt, thơ trừu tượng. Hai chữ "bay xoà" mang màu sắc ảo rợp lên. Hình tượng thơ từ trong cảm rung, thần xuất mà thành. Còn:
                    Đường phúc hậu vầng trăng đầy nở...
      Để nói lên cả tấm thân, làn da, vóc dáng đến tâm hồn nàng… toát ra một vẻ đẹp dịu dàng, mơ mộng như trăng. Tác giả hạ một câu kết đoạn:
                    Nghe không gian, đổ vỡ cả mùa thu!
      Ta nghe như có tiếng mùa thu rơi, đổ sập từ trên trời cao xuống. Tức là trái tim và tâm hồn chàng đang tan vỡ! Có thể coi đoạn thơ thứ ba này là thần cốt, điểm hội tụ chói sáng của tình thơ. Nó chứa đầy ngọc bích trong hình ảnh, ngôn ngữ,  đưa “Sáng thu vàng” lên tầm vóc của một bài thơ mùa thu đặc sắc.
     Những đoạn bốn-năm-sáu sau đó, phát triển cùng với những kỉ niệm xưa và nỗi lòng tan nát của nhà thơ. Mùa thu vàng trống vắng, xa xót bay rợp bóng xuống ngổn ngang:
                    Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
                    Và trái tim cũng không còn.
     Tình yêu thiếu nữ như một cánh rừng hoang ư? Hay thiếu nữ đi rồi để lại trong anh cả một cánh rừng hoang? Nghĩa là, trái tim chàng cũng đã đi theo người con gái mất rồi! Ở đoạn thơ thứ năm:
                    Môi em cười, hoa lá nát đau thêm
                    Thời gian trôi cuộc sống buồn tênh.              
      Hoa lá đến mức độ phải héo hắt, nát đau trước đôi môi người đàn bà trẻ - Thì không biết đôi môi em hấp dẫn, chan chứa đến mức nào !? Đều là những hinh ảnh tượng trưng. Mỗi đoạn lại được níu giữ bằng những câu thơ sâu sắc ấy! Bởi vậy tuy là thơ viết phóng túng, tự do mà cảm xúc vẫn đằm đìa, cô đọng. Chỗ này, chỗ khác trong suốt tình thi... Khung cảnh thiên nhiên được phục hiện, bao quanh đôi tình nhân. Như ở cảnh gặp nhau đầu tiên:
                    Gặp lại em một sáng thu vàng
                    Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
      Tiếp đến cảnh sau:
                    Sáng thu này trĩu cả hàng cây
      "…trĩu cả hàng cây", tức là một mùa thu chin... đang trĩu xuống. Đến đoạn bốn thì tình thơ trào lên dào dạt:
                    Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
                    Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ 
      Tựa như nhà thơ đang ở bên một bờ biển xanh đầy sóng, thổn thức nhớ đến người yêu.
      Cảnh gợi lại những con đường đôi trai gái dẫn nhau đi ngày xưa:
                    Những con đường xưa tắm hơi em 
      Và:
                    Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
                    Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang 
        Những câu này thuộc thơ trừu tượng? Cảnh có mà không có. Nó chỉ được gợi lên trong tâm thức mà thôi.
     Về nghệ thuật: “Sáng thu vàng”  được xây dựng theo nhịp điệu như một cánh võng mùa thu. Làn điệu thơ chuyển dần - Đầu tiên thì đưa nhẹ:
                    Với trời xanh, hồ xanh gió
                    Gió đưa làn tóc em bay...
      Người con gái tóc xoà bay trong gió. Giọng thơ ru uyển chuyển. Sang đến đoạn bốn và năm, cánh võng được đẩy lên bay bổng:
                    …Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông 
                    …Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang 
      Một cánh võng mùa thu chứa trong lòng nó mọi điều về mối tình đôi trai gái. Đến đoạn cuối thả xuống một mùa thu xòa ra, đầy lá:
                    Một mùa thu lá lá
                    Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
                    Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
      Nơi gặp gỡ em ngày xưa giờ đây quạnh vắng, cỏ dại mọc đầy lên - Để rồi tác giả kết bài:
                    Người đàn bà! Em nuốt mùa thu tan...
      Chẳng ai nuốt được mùa thu cả !? Chữ “nuốt” đầy sắc thơ siêu thực. Em đi để cả mùa thu trống vắng còn ở lại, hay đã mang theo mùa thu đi mất rồi? Ai có thể trả lời - Không ai cả, vì chính tác giả cũng không thể trả lời!
     “Sáng thu vàng” phảng phất phong dáng của trường ca. Một mùa thu của tình yêu, toả bóng xuống thi ca.
 
                                                      Tuyết Thúy
                           (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 12.09.2021 19:09:53 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 24.04.2021 17:19:36
 
                     MỘT TÌNH THƠ MƯA HAY VÀ MỘNG
                                                                            Nguyễn Thị Hoàng
                                           Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
 
    Nguyễn Thị Hoàng 
             EM ƠI! THÀNH PHỐ LẠI MƯA
Nghe không em lại mưa lên phố
Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi
Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
Mối tình thời trinh nữ xa xôi

Thưở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
Say như mơ và mộng như thơ
Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ

Thành phố lại mưa…
Có nghe không em? Con chim trời, cá nước
Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua
Tình êm dịu bên em mơ màng quá
Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa

Tiếng mưa rơi não nề thao thức
Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
Bèo dạt sông trôi, buồm anh không bến đỗ
Chân trời vương vấn dải mây lan

Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch
Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
Anh đứng giữa trời mưa làm những vần thơ xao xác
Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang...

 
   Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Nhà thơ Phạm Ngọc Thái có một "chùm thơ tình trong mưa" rất nổi tiếng. Ở  chùm thơ đó, tôi thích nhất bài “Em ơi! Thành phố lại mưa” này:         
                     Nghe không em lại mưa lên phố
                     Bao năm rồi, chiều ấy cũng mưa rơi
    Ta nghe thấy tiếng mưa rơi rất mau và bóng người con gái từ thuở nào đó? Nói về hình ảnh người yêu trong mưa, ở một bài khác anh viết:
                    Em bước nhẹ, những tháng năm hoang dại
                    Về bên anh mái tóc rối tơi bời
                    Anh hôn mãi những giọt mưa em thuở ấy
                    Dẫu chỉ thấy còn bong bóng vỡ đầy môi
                                                             (trong mưa)
     Đọc thơ mưa của Phạm Ngọc Thái, sao mà nhớ da diết về thuở ấy! Thuở của thời thiếu nữ đang yêu: Mưa rơi lên tóc, ướt vai và ướt cả áo em. Tôi cũng thấy bồi hồi không khỏi chạnh lòng, khi nghe giọng thơ anh:
                    Gió se sắt đưa anh vào nỗi nhớ
                    Mối tình thời trinh nữ xa xôi…
      Theo ý trong bài, thiếu nữ đó tác giả đã gặp vào những năm tháng phong trần, dâu bể cuộc đời. Không phải thời vẫn còn mộng mơ trên giảng đường đại học:
                    Anh đã gặp em những tháng năm cát bụi
                    Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ
      Nhưng những thông tin về đời tư tác giả bộc lộ qua các tác phẩm và dư luận? Thời trai trẻ của nhà thơ, từng trải qua cả cuộc chiến tranh ngoài chiến trường. Vậy phải chăng, cô thiếu nữ của bài “Em ơi! Thành phố lại mưa” này: Anh đã gặp và yêu sau cuộc chiến tranh? Khi từ đời lính trở về. Cuộc đời đang trong một nỗi buồn, trống vắng bởi cô đơn - Như lời thơ đã viết:
                        Khi trái tim yêu trong cõi vắng vật vờ
      Một người lính trận lăn lộn qua cả cuộc chiến. Tuổi trẻ phải vùi trong bom đạn, lại có tâm hồn lãng mạn của một nhà thơ? Hẳn khi gặp một nàng thiếu nữ duyên dáng, trẻ xinh... Trái tim ắt phải rung động mãnh liệt lắm! Tình yêu ấy giúp cho tuổi trẻ nhà thơ tưởng đã cỗi cằn, nay sống lại:
                     Thuở xưa ấy, em ơi! Như hoa nở
                     Say như mơ và mộng như thơ
    Theo năm tháng được biết thì bài thơ tác giả sáng tác đã vào cái tuổi cập kề lục tuần rồi. Nghĩa là đến mấy mươi năm sau, vào một chiều thành phố mưa rơi? Đã đánh thức trái tim anh, trở về với mối tình xa xưa:
                      Thành phố lại mưa...
                      Có nghe không em? con chim trời, cá nước
                      Khúc nhạc chiều dìu dặt bay qua
     Hình ảnh "con chim trời, cá nước" ở đây, muốn nói về sự xa cách và tình yêu đã trôi vào dĩ vãng. Như con chim bay trên bầu trời mênh mang. Con cá ở ngoài sông xa tít tắp. Dẫu thế, bên tai anh vẫn văng vẳng tiếng yêu thương ngày nào tựa khúc mưa chiều dìu dặt. Em có nghe thấy và còn nhớ tới không? Trái tim thi nhân thổn thức hoà lẫn trong tiếng mưa thành phố, để cõi lòng bật lên thảng thốt:
                     Thôi hết rồi! Tan vỡ bến bờ xa...
      Những dòng thơ trào ra nỉ non, tha thiết:
                     Tiếng mưa rơi não nề thao thức
                     Bóng hoàng hôn đỏ cũng xua tan
                     Bèo dạt sông trôi, buồm anh không bến đỗ
                     Chân trời vương vấn dải mây lan
       Lòng người thì hoang vu với vài đám mây trôi. Tất cả hoà quyện nhau để khắc hoạ tình yêu ở trong mưa. Tôi xin phân tích đoạn cuối cùng:
                       Ôi cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch...
                       Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
     Các văn nghệ sĩ thường hay nói: Cuộc sống như một cái sân khấu lớn. Ở trên đó, mỗi con người là một nhân vật hay một vai diễn? Có phải vậy nên nhà thơ Phạm Ngọc Thái mới viết:
                       Ôi, cuộc sống! Tình chỉ như màn kịch…
     Tôi nghĩ: Chẳng qua chỉ vì mối tình đã tan trong tiếc nuối, nên tác giả mới buông ra lời ca thán như thế? Bởi vì, nếu mối tình xa xưa ấy cũng chỉ như màn kịch thật -  Và nhà thơ với người con gái cũng chỉ là vai diễn? Thì sự chia tay là tất nhiên, khi cái sân khấu đã đóng màn và tình yêu đã hết. Đằng này, mấy chục năm trôi qua nhưng lòng nhà thơ vẫn còn lưu luyến đến thế? Tưởng như máu tim anh vẫn đang rỏ xuống mỗi dòng thơ...
     Anh đã quá yêu người con gái đó nên mới buông ra lời qui tội cho cuộc sống đó thôi! Với những dòng tri kỷ ở trong thơ, hẳn cô gái cũng rất yêu anh - Vậy, vì sao cả hai người cùng yêu nhau mà mối tình lại tan? Ta không biết. Chỉ biết tác giả đã phân bua:
                     Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
     Tôi còn nhớ bài thơ "Hoa huệ" của nhà thơ Bế Kiến Quốc (1949-2002), đã viết:
                      Hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng
                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?
                      Em đừng nhìn đi đâu thế em
                      Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
     Ở đây, hình ảnh của bông hoa đã trở thành biểu tượng của tình yêu. Bông hoa huệ trắng và bức tường cũng trắng kia là thật. Nhưng tất nhiên bóng của nó hắt lên tường sẽ thành... đen. Ý nhà thơ muốn nói: Tình yêu có hai mặt - Nếu mặt trước của nó là hạnh phúc, niềm vui sướng và đam mê say đắm - Thì mặt sau của tình yêu lại là nỗi đau khổ vô hạn khi tan nát. Sẽ trở thành bi kịch, thất vọng của cuộc đời. Nhưng chính nhà thơ Bế Kiến Quốc cũng không lý giải nổi mối tình của mình đẹp thế, sao lại vỡ? Ông xa xót mà thốt lên:
                      Anh không biết vì sao, ai có lỗi...
                      Nhưng mãi mãi vẫn còn câu hỏi
                      Sao bóng hoa trên tường lại đen?
     Xin trở về với bài thơ “Em ơi! Thành phố lại mưa” - Khi mối tình không thành mà chẳng lý giải nổi vì sao? nhà thơ cũng chỉ biết than:
                     Nào phải lỗi do anh? Đâu phải lỗi do em?
     Phải chăng bởi duyên trời, hai người không có phúc phận được sống bên nhau? để cho con tim năm tháng phải dày vò, tiếc nuối? Để những chiều mưa rơi thành phố - Anh thi sĩ lại thổn thức vì thương nhớ người yêu, mà sáng tác lên những áng tình ca bất hủ để lại cho đời. Bài thơ đã được kết:
                    Anh đứng giữa trời mưa, làm những vần thơ xao xác
                   Người con gái năm nào về như một bóng chim hoang
    Cũng không phải người con gái kia là cánh chim hoang đâu, chính là lòng nhà thơ vất vưởng, vô vi như một bóng chim hoang. Tư duy thơ sâu. Ngôn ngữ, hình ảnh sinh động. Làn điệu nhụy nhàng mà không rơi vào sự bóng mượt nhàm chán. 
     “Em ơi! Thành phố lại mưa” là một bài thơ tình mưa hay và mộng.
 
                                                  Nguyễn Thị Hoàng
                        (Trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại”, 2019)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.04.2021 17:26:58 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 24.04.2021 17:57:45
 
 
                                          CHÙM THƠ CHỌN 5 PNT   
         

 
            NGHĨ VỀ HÀ NỘI

Hà Nội cứ suốt đời nghe lá rụng
Những ngọn đèn, ô cửa mùa đông
Trái sấu nhỏ bàng hoàng như kỉ niệm
Nước hồ xanh rêu bám kín Tháp Rùa.

Hà Nội cứ rầm rì trang tình tự
Của những đôi trai gái bên bờ
Tà áo trắng em bay, một thời thiếu nữ
Theo anh hoài tới tận lúc già nua

Hà Nội mới mà như là cổ tích
Phía nhà ga đoàn tầu đến rồi đi
Những giọng nói lẫn vào lời gió thổi
Ai trở về, và ai sắp chia ly?

Đêm tóc trắng lại nghĩ về Hà Nội
Nằm thở dài, nhớ quá! Bóng em xưa…

 
 
            HÀNG CÂY LÁ ĐỔ

Thế là hết! Em đi, chôn chiều vào gió
Ta lang thang qua lá đổ hàng cây…
Bản tình xưa em hát ở đây
Nơi ngày nay, xác các con thiên nga đã chết

Ôi, hàng cây! Cùng ta... bao đêm từng tha thiết
Những nụ hôn và tấm thân bất hủ của em
Giờ ta sống trong hoang tàn sụp lở
Bên những chiếc bóng của đàn thiên nga

Thời gian phôi pha - Tóc ta hoá đá
Gió cũng làm lau ngàn năm ru rất khẽ!
Xin rụng một bông buồn
                                          lắt lay



    GIÓ SẼ MANG TÌNH TA BAY MUÔN PHƯƠNG
                                                                               Tặng Đỗ Thị Ánh Tuyết
 
Anh hôn em, hôn mãi chẳng muốn thôi
Em lại muốn gửi tình theo cơn gió
Gió mang tình đi muôn phương: Em bảo thế!
Người đàn bà đẹp như bông hoa tươi.
 
Có một buổi cùng anh giữa đất trời
Em lại hỏi: Em phải nằm bên nào, anh nhỉ?
Ở bên trái thì thuận hơn, anh ạ!
Ôi, em của tôi - Thật đáng yêu, cưng ơi!
 
Tình yêu em tựa thiên thai buổi sớm
Tâm hồn hương ngát nhụy hoa thơm
Anh đã qua sắp hết đời trần thế
Bỗng cháy rực trời... tuổi hoàng hôn...
 
Người đàn bà, nếu ta thiếu em
Như trời kia thiếu vòm xanh để sống
Em mới hoàn mỹ lòng khát vọng
Anh mang về đưa lên tận cung trăng
 
Một mai kia trong thế giới vĩnh hằng
Có em bên. Nàng tiên sa hạ giới...
Kiếp vô thường là nơi ta tạm gửi
Nhớ giữ chặt anh mà theo tới chân mây
 
Có Đức Phật Như Lai với Bồ Tát đón mời...
Ta sẽ có chỗ ngồi trên Đất Thánh
Hậu thế tưởng niệm ta. Đời ngưỡng vọng.
Đặt lên mồ em những đóa hoa thơm.
 
Là người tình chung thủy của thi nhân
Đốt ngọn lửa yêu trong tim anh. Buổi chiều tà lạnh giá.
Anh đền cho em cả biển tình anh đó!
Cùng trời xanh để em sống muôn năm
 
Có thể một ngày !? Trên sông nước Tiền Giang
Gò Công quê em, đời xây đài kỷ niệm
Với bóng em bên anh, nụ cười trìu mến
Một tấm hình đẹp nhất giữa quê hương
 
Gió sẽ mang tình ta bay muôn phương…

 
 
      CÓ MỘT KHOẢNG TRỜI
                                                      
Có một khoảng trời để thương, để nhớ
Là khoảng trời ở đó có em
Những bóng cây in trên đường phố thân quen
Đêm đêm chiếc lá nhớ lại bay về, xào xạc

Có một khoảng trời không ai thấy được
Dẫu đêm nào chớp cũng loè lên
Có ánh chớp không kéo theo tiếng sét
Mà rung ngân, rung ngân… trong tim!

Khoảng trời gió thổi xót đêm
Hoá sắc cầu vồng nối hai miền thương nhớ
Cây tình yêu lớn theo cấp số
Ngược trời về cho ta gần ta

Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa
(xa thật đấy mà cũng gần thật đấy)
Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy
Thổi về phương em giữa chiều gió nổi
 
Hạt vô tư còn lại… những tàn tro…
 
 
 
        NHÌN TRĂNG NHỚ EM
 
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương.
 
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm.
 
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em.
 
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương.
 
Trăng không còn. Em vẫn hiện lên...
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Trong giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt
Anh bay về ôm lấy trăng em.
 
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến
Chẳng đảng phái nào sánh được hơn.

Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"
Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm.
 
 
                   BÀI CA XỨ SỞ

Con tàu vô tư cứ chạy
Qua cánh đồng nước Đức, những hàng cây
Có một con tàu cũng đang chạy trong tôi
Tiếng nghiến rít trên đường ray máu rỏ !
Tôi muốn viết bài ca xứ sở
Không kêu than mà hát giữa lòng đau

Quê hương tôi yêu ! Tổ quốc tôi yêu !
Đất có nghèo đâu, sông núi có nghèo đâu ?
Nền văn hiến cũng ngàn năm phong nhụy
Đến hoa lá bốn mùa mưa gió
Biển xanh trời... cá đầy khơi...

Tính mẹ cần cù từ buổi mới xa nôi
Khi chống gậy còn lựa từng bông thóc lép
Cha đánh giặc về lại bền tay cầy cuốc
Nắng xém ruộng chiêm, lúa xanh đồng

Em gái mười năm chung thuỷ chờ chồng
Bông hoa tặng ai hương xa vậy ?
Cái cửa sổ ngỏ cô nhà hàng phố
"Mà hương thầm thơm mãi bước người đi"… (*)

Con tàu tôi vẫn chạy lắc lư
Dẫy phố tôi lớn lên, còn nhỏ nghèo lắm bụi
Ngôi chùa cổ mái cong, vườn đầy cỏ dại
Bức tường ngăn nay đã xanh rêu

Bóng mẹ còng một đời còng mãi
Thân cò khuya tần tảo những đêm đêm
Mẹ trở về, mẹ trở về… trong nỗi cô đơn
Thắp nén nhang chồng
Lấy nước mắt xoa lòng già héo.

Em ở lại với con ở lại
Anh ra đi tấm áo bát cơm
Đau xé ruột vẫn đành rời đất !

Tôi đi giữa quê người
Những thành phố đèn nê-ông chói mắt
Nhớ quê nhà dãi nắng, dầm sương
Giàu đất, giàu người, giàu bể, giàu non
Người ơi người ! Tình thương đừng vợi cạn…

                           Viết trên chuyến tầu lên Berlin
                                              29.12.1988

(*) Thơ của Phan Thị Thanh Nhàn
 
 
        ĐÊM NAY TRỜI LẠI KHÔNG MƯA
 
Trời không mưa, áo em đâu có ướt
Chỉ ướt lòng em, cô gái nhỏ của anh
Em ngả vào anh mà hình như có khóc?
Tiếng con tim thật rõ bên mình.
 
Mùa thu đã qua, ta nghe lá rụng
Buổi cuối cùng em đến để chia tay
Ngày mai em lấy chồng, phải xa vĩnh viễn
Chẳng sao mà, trời có mưa đâu, em ơi!
Kìa không mưa mà áo anh lại ướt
Mùa thu đi. Sao nắm mãi bàn tay…
Ai nói tình gió mây sẽ quên trong chốc lát
Bao năm trời… hồn anh vẫn mưa bay?
Tại đêm đó không mưa hay bởi vì anh nhớ
Phố vắng em buốt giá cả canh dài
Em dại lắm, lấy chồng làm chi vội?
Đưa em sang sông rồi, lòng mới biết đã yêu ai!
Ta lại bước lang thang trên phố ấy
Đến mỗi gốc cây, có vệt cũ em ngồi
Tiếng hát xưa đưa, bờ hồ gió thổi
Bóng với mình đi mãi tới ban mai
Cứ tưởng buổi cuối cùng em đến, đã chia tay…
 
 
 

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.08.2021 11:28:10 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 25.04.2021 17:34:53
 
                       MỘT BẢN TÌNH ĐAM MÊ MAN DẠI
                                                          Diễm Loan
 

                KHÓC BÊN HỒ NÚI CỐC

Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay

Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...(*)
Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con

Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.

Anh đến bên Hồ Núi Cốc giữa chiều
Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
                                Hồ Núi Cốc, đêm 9.7.1997

(*)  Huyền thoại kể: Nàng Công (con gái quan lang dân tộc) thương nhớ chàng Cốc, khóc mà chết. Nước mắt nàng chảy thành suối nay biến ra hồ. Chàng Cốc (chỉ là một tiều phu đốn củi),  thương nàng Công cũng chết dưới gốc cây sồi, hoá thành non bao bọc lấy hồ - Nên mới có tên gọi: Hồ Núi Cốc!

 
Lời bình:  Vào một đêm mưa gió. Không gian hồ núi huyền thẳm, hoang dại và vô tận. Con người cô đơn! Từng làn gió rít vút qua ngàn, mưa táp trên mặt hồ nước mênh mang màu xanh thẫm. Niềm hạnh phúc lớn nhất của đời anh là được sống bên nàng. Một niềm đam mê man dại. Có phải chăng con người sinh ra trên thế gian này, chỉ có tình yêu gái trai là bất diệt? Toà Thượng Đài ngự trị cả trên triết học và chính trị. Tâm hồn và thể xác hoà quyện nhau đưa anh về cõi cực lạc vô biên. Bài thơ Khóc Bên Hồ Núi Cốc được dựng lên bên câu chuyện tình cổ của nàng Công, chàng Cốc bất hủ trong truyền thuyết vọng về. Và chính giữa đêm mưa gió, tình thi diễm lệ ấy đã ra đời!
      Gọi là "Khóc bên Hồ Núi Cốc" nhưng bài thơ không phải là tiếng khóc, mà là một khúc tình ca:
                    Anh đã đến bên Hồ Núi Cốc
                    Gửi hồn theo dòng nước trôi thây...
      Hồn chàng theo dòng nước cuốn đến với nàng. Thiên nhiên đang bao trùm sự lạnh lẽo, hoang vắng. Giờ anh đứng đây nhìn ra dòng nước mênh mang trôi dạt kia, chỉ còn lại một thế giới trong anh vô vi và trống rỗng. Mà cái "thây" nó cũng đang trôi về phía vĩnh cửu đấy chứ? Biểu tượng "trôi thây" đã dược thăng hoa từ trong cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ, để mở đầu cho bản tình luyến ái gái trai ngàn năm vô bến, vô bờ. Xin bình tiếp câu ba:
                     Gió gào thét trong lặng chìm tim óc
     Trong cái tiếng gió mưa cào xé đất trời kia (bên ngoài) , lại đang bao bọc một thế giới tĩnh lặng của tim óc con người (bên trong), cùng chứa đựng một khát vọng mãnh liệt tột cùng cả tình yêu trong nó. Đẩy nỗi thơ đi đến điểm cực đại, bắn vọt ra một bức tranh hoành tráng, hoàn bích nhất về nàng:
                    Em khoả thân nằm trên bóng bến xưa bay...
      Ta chạnh nhớ tấm thân nàng Kiều được Nguyễn Du mô tả:
                    Rõ màu trong ngọc trắng ngà
                    Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên.
      Nhưng bức tranh Nguyễn Du mô tả là bức tranh mĩ miều có thật của Kiều đang khoả thân trong khi tắm, còn bức tranh khoả thân của "Khóc bên Hồ Núi Cốc" chỉ là bức tranh ảo. Bởi ấn tượng từ kí ức, cồn cào trong trái tim nhà thơ mà bật ùa ra. Ta thấy tác giả không tả một nét gì trên thân thể, mà nàng vẫn hiển hiện lên vẻ đẹp không kém kiêu sa. Tình thơ tuy có bạo loạn nhưng trong sáng. Rõ ràng đây là một khúc tình ca, đâu phải là một bi kịch tình.
      Những yếu tố cảm xúc của bài thơ này, theo thi pháp dòng thơ tượng trưng hiện đại Pháp cuối thế kỉ XIX sang đầu thế kỉ XX, hoà phối với dòng thơ lãng mạn. Ngôn ngữ, hình tượng hàm súc, cô đọng - Không viết chảy tràn theo tình cảm như nhiều thi nhân trong phong trào "thơ mới", thời tiền chiến ở nước ta.
      Sang đoạn thơ hai, là sự liên kết giữa câu chuyện huyền thoại xưa, nói về cái chết chung tình của một đôi trai gái – Với câu chuyện đời nay:
                    Nước mắt nàng Công khóc tan ra suối
                    Cốc chết bên sồi lại hoá thành non...
      Mối tình đôi trai gái ấy đã bị các quan lại và lễ giáo phong kiến ngăn cấm. Họ quyết quyên sinh để giữ trọn lòng chung thuỷ sắt son. Nàng thì biến ra hồ nước, còn chàng hoá thành non. Tình yêu là ý nghĩa tồn tại của đời ta:
                    Nhưng để làm gì khi tình vô vọng?
                   Chút hương nàng vẫn ấm khoảng đời con!
     Ba chữ "khoảng đời con" ở đây mang theo ý nghĩa ẩn dụ. Ý nói rằng, không có sự ấm áp trong tình yêu của người đàn bà mang lại cho những "khoảng đời con" ấy, thử hỏi: Sự sống tồn tại trên trái đất này để làm gì? Không có sáng tạo hay tiến bộ xã hội nữa. Không có ý nghĩa của cái "khoảng đời con", thì cũng không có sự vĩ đại !?
      Người than cho câu chuyện tình của nàng Công, chàng Cốc trong trời đất?  Cũng là để than cho chính mình. Mượn người xưa mà nói nỗi đời nay. Ý, tình cứ rền xiết lên nhau, như hai câu trong đoạn thơ cuối:
                    Thơ rỏ đôi hàng, lệ tràn một chén
                    Khóc chuyện tình xưa là khóc mình lắm lắm
      Tôi bình sang đoạn ba - Đoạn thơ máu thịt nhất của bài:
                    Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
                    Ôi, hồ núi cứ xanh rì muôn thuở
                    Máu ta đổ đầy cho tạo hoá tạc phù điêu.
      Khi mưa gió phủ táp xuống hồ núi, nghe như tiếng của câu chuyện tình xưa đang nghiền xé: Bóng ngàn than huyền thoại tang trắng phủ /-  Tình đời là một dải băng tang trắng ư? Tình yêu gái trai cho ta nguồn suối yêu thương hạnh phúc, song cũng gieo lên cuộc đời những bất hạnh đớn đau.
      Nghĩa là, trời đất cũng để tang cho những linh hồn son sắt của tình yêu! Nói về thủ pháp nghệ thuật sáng tác của tác giả trong đoạn thơ ba: Lấy ba câu thơ ảo (câu 1-3 và 4) là thơ trừu tượng, nuôi một câu thơ thật - Thật và rất đời. Chính là câu thơ hai trong đoạn:
                    Mà miệng còn muốn cắn vú người yêu!
      "máu ta đổ đầy..." là biểu tượng nói về tình yêu. Thơ ngả sang màu siêu thực. "Bức phù điêu" đã được sáng tác trong thiên nhiên kì vĩ kia? Bởi có máu và nước mắt của đôi trai gái tắm vào trong nó - Nghĩa là cả trong bất hạnh đau thương, tình yêu cũng là bản tình ca bất hủ… trong vũ trụ và cuộc sống con người. Đoạn thơ ba như một bức hoạ dựng sững giữa trời.
       Chế Lan Viên đã định nghĩa về thi ca:
                    Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia đấy
                    Bờ bên kia hư ảo - Bờ thơ.
                                            (trích di cảo CLV - Bờ bên kia )
      Nhưng sự hư ảo ở đây phải là cái hư ảo thấm đầy huyết, đầy hồn, đầy sự sống và ma lực trong thế giới của nó!
      Xin trở lại để nói tiếp về câu thơ hai của đoạn: Nếu không có "vú người yêu", thử hỏi - Hồ núi có xanh thắm hơn thế nữa, thiên nhiên có đẹp hơn thế nữa, để làm gì? Cả chiến tranh và hoà bình trong thế giới này: Nếu không có vú người yêu, thì loài người gây ra nó cũng để làm gì?
    "Cắn vú người yêu…"  là một hình tượng rất đời được đưa vào trong thơ: Hình ảnh thơ đọc vẫn không thô, không sượng. Viết được câu thơ như thế là một thành công trong thi ca, đưa bài thơ đi xa trên bến-bờ-thi...
      Chỉ xin nói thêm một chút nữa về câu thơ cuối cùng:
                    Mai chết rồi làm nước tắm cho em...
      Xuân Diệu thì nói rằng:
                    Anh không xứng là biển xanh
                    Nhưng cũng xin làm bể biếc
      Còn đây, tác giả lại viết: "mai chết rồi…" - Phải, con người có thể làm bao chuyện phi thường? Lên cả vũ trụ mà chinh phục sao hoả, sao kim… Sáng tạo những phát minh khoa học vĩ đại… Chế ra cả tên lửa xuyên lục địa, bom nguyên tử, đầu đạn hạt nhân để tiêu huỷ hoàn cầu - Ấy thế mà, liệu còn gì có thể cao xa hơn là làm một dòng suối mát, một hồ nước xanh… hay chỉ một bồn nước trong nho nhỏ, tắm cho cuộc đời và thân thể của người yêu?
      Đấy, nhà thơ của bài "Khóc bên Hồ Núi Cốc" này chỉ muốn kết tình thơ ở đó !? Tùy đời suy ngẫm.
 
                                                            Diễm Loan
                              (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 17.09.2021 17:53:25 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 26.04.2021 12:46:42
 
 
                             SỰ THĂNG HOA CỦA BUỔI TÌNH CHIỀU
                                                                              Kiều Tuấn
 

         CHIỀU HOÀNG HÔN
 
Chưa đi đến tuổi già
Mà yêu hoàng hôn đỏ
Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao...

Soi mặt nước xanh veo
Trầm tư và lặng lẽ
Đàn muỗi phố đã kêu
Quanh bàn nơi quán nhỏ
Chiều đang buông dần chiều

Sợi tóc mình ngơ ngác
Có nên bạc hay không?
Tuổi trẻ sợ già nhanh
Giờ điềm nhiên đến lạ
Cái màu hoàng hôn đỏ
Cháy như là khai sinh!

Ôi, hoàng hôn hoàng hôn
Trái tim là bất diệt!
Ngày mai anh có chết
Cũng nhẹ như lá vàng
 
Hồn mây gió lang thang
Mà đầm đìa mưa bão
Đời, tư lợi không tham
Chán trò danh bốc hão

Mang suối tóc của em
Đi rồi yêu vĩnh viễn
Anh sẽ hoá rừng thông
Ngàn năm reo cát, sóng...
 

 
 Lời bình:  Vào một chiều trước khi trời tối, bóng hoàng hôn chiếu hắt trên nền trời qua làn mây xa đỏ rực. Nhà thơ ngồi trong một cái quán nhỏ bên phố, ngẫu cảnh tình mà viết ra:
                    Chưa đi đến tuổi già
                    Mà yêu hoàng hôn đỏ
                    Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao...
     Con người sớm yêu bóng chiều hoàng hơi cô liêu này, hẳn cõi lòng cũng đã đi vào độ sâu lắng của cuộc đời. Nhưng đây là cảm xúc trước cái mầu đỏ cháy rung rinh như sắp muốn nổ tung trong trời đất, hoà cùng tâm trạng bồi hồi, suy tư của nhà thơ:
                    Chợt nhìn, chợt nhận, chợt xôn xao... 
      Bắt đầu vào thơ nó đã tiên báo về sự bùng nổ của nội tâm tác giả. Sang đoạn hai: Có một cái gì đó hình như hơi đìu hiu, quạnh quẽ đã hắt lên trong hồn anh:
                    Soi mặt nước xanh veo
                    Trầm tư và lặng lẽ
     Rõ ràng sự trầm tư lặng lẽ này đã không hề còn trầm lặng? Xung quanh thì:
                    Đàn muỗi phố đã kêu
                    Quanh bàn nơi quán nhỏ
                    Chiều đang buông dần chiều
      Những con muỗi kêu vo ve ở ngoài đời khi nó đốt ta đến khó chịu, nhưng được đưa vào trong thơ lại trở thành hình ảnh rất thi vị - Tạo cho Chiều Hoàng Hôn nằm trên một bức phông cảnh đời rất thực. Đời sống ấy đang thường nhật. Những nét thơ phố này càng làm cho tình thơ thêm sống động. Đến đoạn ba thì nỗi lòng sâu kín nhất trong tác giả như mạch suối ngầm được bắn oà ra:
                    Sợi tóc mình ngơ ngác
                    Có nên bạc hay không? 
     Nhân cách hoá mái tóc nhà thơ là câu thơ hay! Nó ấp ủ tâm tư thầm kín của tác giả chạnh nuối về thời tuổi trẻ? Khi nhà thơ tự hỏi: Có nên bạc hay không?/-  Có nghĩa là, chính đầu anh đã chớm bạc mất rồi. Phải chăng cũng như Xuân Diệu đã viết:
                    Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
                    Em, em ơi... tình non sắp già rồi!
      Nhưng không, bên một chút buồn vừa thoáng qua lòng tác giả - Ta lại thấy một mảng đời khác đang xô đến, vụt phá trong tâm hồn. Đó chính là cái nửa cuộc đời chiều đang khai hoa, kết trái và đầy niềm tin yêu đẹp đẽ:
                    Cái mầu hoàng hôn đỏ
                    Cháy như là khai sinh! 
      Để lòng nhà thơ bình thản, ung dung mà đón nhận tuổi hoa niên của đời mình. Sở dĩ tác giả đã có một triết lý sống an nhiên, thanh thản… còn xuất phát từ một nỗi lòng sâu xa khác? Trong đoạn thơ sau đó đã nói tới:
                    Hồn mây gió lang thang
                    Mà đầm đìa mưa bão
                    Đời, tư lợi không tham
                    Chán trò danh bốc hão.
      Anh trở về với sự yên tĩnh thanh tao để sống cho trọn nghĩa. Nếu có phải từ giã cõi trần ai này, thì lòng cũng chỉ nhẹ thoảng như một làn gió bay… Một bóng chiều hoàng dần tắt, sau một ngày đã đốt hết mình để nắng. Khi trái tim anh đã đập trọn vẹn với đời:
                    Ôi, hoàng hôn hoàng hôn
                    Trái tim là bất diệt!
                    Ngày mai anh có chết
                    Cũng nhẹ như lá vàng
      Hình ảnh chiếc lá vàng rơi mang ý nghĩa của sự vô vi, cát bụi. Song điều đáng nói ở đây, bao trùm lên cả chính trị, triết học là “tình yêu và cuộc đời”! Chỉ có tình yêu trường cửu mãi không già. Nó đã được vụt lên trong bốn câu thơ kết, tạo thành một bức phông cảnh hoàn bích nhất của bài:
                    Mang suối tóc của em
                    Đi rồi yêu vĩnh viễn
                    Anh sẽ hoá rừng thông
                    Ngàn năm reo cát, sóng...
      Đó chính là bản tuyên ngôn của “Chiều hoàng hôn”: Bài ca “tình yêu và  cuộc sống”! Cát và sóng - Phải, trên biển cả mênh mang trường tồn vô định kia? nó xoá đi bao hạnh phúc lẫn khổ đau của con người. Cát cứ xoá… Nhưng ngàn năm thì sóng vẫn xô… vẫn vỗ… vẫn thét gào trên biển cả - Sự sống mãi mãi còn tồn tại.             
      Bản tuyên ngôn về tình yêu bất hủ đã kết lại tình thơ. Nó đi về phía mặt trời, mặt trăng của sự sống vĩnh hằng, bất diệt!
 
                                                        Kiều Tuấn
                                (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.04.2021 12:56:37 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 26.04.2021 17:27:24
 
 
                           NỖI ĐỜI TRONG CHỐN NHÂN QUẦN 
 
                                                        Hoàng Ngọc
 

       
      CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ
 
Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi…
 
Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp
Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
Trong cõi lòng tôi buồn triền miên
 
Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng thu xưa…
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ, khe khẽ vào khuya.

        
 
Lời bình:   Vào một đêm sương gió. Nhà thơ đã gặp "cô quét lá" bên hồ nước (chính là người quét rác trong phố khuya) - Đó là những con người lao khổ. Cuộc sống cũng giống như những chiếc chổi tre ngày tháng quét lê trên đường, mòn vẹt dần đi:
                     Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp
                     Tiếng chổi mòn kêu xiết vào tim!
       Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp ấy kêu xiết vào trái tim người thi sĩ, và những giọt thơ từ trong anh rơi ra. Thông qua bức chân dung "Cô quét lá đêm hồ"… Nhà thơ muốn phản ánh cuộc sống, cùng nhân ảnh của những con người lao động trong cõi dân gian. Giữa khối lòng buồn, tình buồn của tác giả - Nhưng lại ở trong cõi mộng: Nó mơ mộng đến mức, hình ảnh cô quét lá trên đường hóa thành như tiên nữ từ trong tranh bước ra… lặng lẽ đi vào bến bờ thi:
                    Em hóa thành thơ rơi lặng lẽ
                    Trong cõi lòng tôi buồn triền miên
      Tấm hình bức chân dung trở thành siêu thực. Cảm giác vừa xa xót, vừa mộng mơ hòa quyện trong tâm hồn tác giả, như ở đoạn thơ hai ta vừa phân tích : Tạo thành nhân cốt rất đời của bài thơ!
    Sở dĩ tôi nói “nhân cốt đời", bởi vì: Nếu ta phân tích tới hai câu đầu của đoạn thơ thứ ba, sẽ lại gặp một nhân cốt khác nữa? Nhưng nó đã là hình ảnh mang tính tượng trưng, ra khỏi bến trần ai thường tình:              
                     Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng
                     Con nai vàng chết bóng thu xưa…      
    Nhà thơ tâm sự: Nhìn sâu vào trong đêm đó… giữa anh và cô quét lá đêm hồ ấy,  như có hai khoảng đời cách biệt? Một đằng anh thi sĩ mộng mơ, còn em lại đang quét lá rơi. Nói một cách khác, em đang lao động kiếm tiền vì miếng cơm manh áo, còn tâm trí nào mà cảm đồng với những xúc cảm lãng mạn của nhà thơ?
      Chung quanh tiếng lá cây reo nghe bình thản một cách lạnh lùng. Bóng trăng trên đầu cũng trở nên nhợt nhạt, côi cút trong cả khoảng không gian vô tận, vô bờ… Cô quét lá có cô đơn không? Nhà thơ không biết! Em cứ thầm thì lặng lẽ quét, chẳng hề để ý đến sự có mặt của anh lúc đó. Nhà thơ thấy chính lòng mình cô đơn. Câu thơ:
                    Trăng như đứa không nhà trôi lạc lõng 
      Đã ra đời như thế! Bóng trăng trên đầu đã được hóa thân để kết hợp với câu thơ dưới:
                    Con nai vàng chết bóng thu xưa...
      Nhưng vì sao lại có cảnh con nai vàng bị chết giữa bóng của rừng thu? Từ nỗi đời mà ra. Hình ảnh cô quét lá cứ quét ngày, quét tháng như chiếc chổi tre… năm tháng mòn vẹt dần đi - Còn con người những kẻ bần khổ ấy làm gì có "nhân ảnh" trong xã hội? Họ làm gì có tâm trí mà mộng với sầu như cố thi nhân Lưu Trọng Lư, mơ đến cảnh bóng con nai vàng của Tiếng Thu kia? Thế là từ cảnh ngang trái của đời nảy ra ý ngược thơ: Con nai vàng trong rừng thu phải chết !?          
     " Con nai vàng ngơ ngác / Đạp trên lá vàng khô " /- Trong thơ cố thi nhân: Nó bọc chứa cả thế giới huyền ảo như cổ tích, nằm bên trong tình thơ - Còn hình ảnh "con nai vàng chết" của bài thơ  "Cô quét lá đêm hồ" này: Ý nghĩa xã hội lại nằm bên ngoài tình thơ. Nó phản ánh sự mất mát, cả giá trị đời sống cũng như tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài, nâng tầm vóc của bài thơ cao lên!
       Tôi xin quay trở lại bình đoạn thơ mở đầu:
                     Một đêm hồ nước đầy sương gió
                     Người đi không rõ mặt người
     Miêu tả cảnh trời sương gió (nghĩa đen), để phản ảnh cảnh lầm lụi gió sương của những con người lao động (nghĩa bóng). Hình ảnh hồ nước: Biểu tượng về nước non xứ sở, mảnh đất mà mồ hôi họ đã tắm vào trong đó. Thế mà họ lại:
                     Người đi không rõ mặt người…
     Đấy chính là nhân ảnh của nhân gian? Chẳng khác nào những kiếp phù du -  Nghĩa là, bài thơ không dừng lại ở thân phận cô quét lá. Nhà thơ đã chạnh lòng nghĩ đến những kiếp đời của chốn nhân quần. Cái lớp người thời nào mà chẳng phải chịu những sự bất công? Sống vật vã suốt đời chỉ để lo miếng cơm, manh áo. Đến cuối bài, hình tượng nhân ảnh mờ mịt này, còn được tác giả nhắc lại một lần nữa:
                     Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
     Suốt dọc bài thơ: Từ không gian gió sương đến cuộc sống con người, cái chổi tre, vầng trăng, rồi cả bóng con nai vàng... đều là những hình ảnh làm biểu tượng. Ta hãy nghe tác giả tả về cảnh liễu hồ:
                     Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
                     Em thầm thì quét lá, bên tôi!
     Cái tiếng liễu đìu hiu ru quanh hồ vắng, bên những bước đi âm thầm của cô quét lá: Cảnh ấy, đời ấy... như Nguyễn Du đã viết:
                     Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
      Đã được hòa tấu bằng một giọng thơ lắng đọng và hơi hiu hắt. Có lẽ chỉ những rặng liễu kia đã cùng thức để cảm đồng với nhà thơ mà lặng lẽ ru cuộc đời cô quét lá? Đưa ta vào khoảng không gian thật mơ hồ : Nửa thực, nửa không. Nhà thơ xót với nỗi đau đời mà hóa buồn chăng? Chính trong tâm trạng ấy, cô quét lá đêm hồ thành thơ rơi vào cõi lòng anh.
     Ở ngoài kia, xa kia… Cô quét lá vẫn đang lặng lẽ quét, lặng lẽ đi, khuất dần vào trong sương tối. Khoảng không gian giờ đây, chỉ còn nghe thấy những vần thơ của thi nhân !? Vẫn vọng lên ở đó… với bóng trăng ngàn thu cô đơn soi mãi trên đầu,  đi vào cõi muôn năm.
 
                                                        Hoàng Ngọc
                        (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.04.2021 17:40:45 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 28.04.2021 17:04:33
 
 
                        MỘT BẢN TÌNH MƯA NGỌT NGÀO
 
                                                                                                  Thảo Hoàng
 

         MƯA BAY TRONG TIẾNG CHUÔNG
Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện

Nam-mô-a-di-đà!
Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...

Vi vút tầng cao con lá rụng
Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ.

Thoắt tình đã vào xa vắng
Mình anh với bóng nhớ hoài em
Hồn như cánh chim vô định
Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang

Ôi, tiếng chuông gảy lên bao ký ức?
Kia không gian thao thiết gót chân mềm
Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.
 
 
   Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
Lời bình: Trong làn mưa bay thành phố, có một người thi sĩ đang lang thang nhớ bóng người yêu:
                        Vi vút tầng cao con lá rụng
                        Nghe lao xao sóng vỗ bên hồ
                        Chân ta bước dưới khuông trời thành phố
                        Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ
     Đọc đến những từ "con lá rụng": Hình ảnh của những chiếc lá đang chao hiu hắt giữa tầng không - Tôi bỗng liên tưởng đến câu thơ trong KIỀU của Nguyễn Du:
                       Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
     Đây là hình ảnh của vầng trăng cô quắt, khi nhớ bóng người đi xa. Mảnh trăng cô độc ấy: Nửa thì lọt qua song cửa soi lên chiếc giường chăn đơn, gối chiếc của Kiều - Nửa dõi theo cái bóng đã khuất dặm trường của chàng Thúc Sinh ở tận phương trời.
     Trở lại với bài "Mưa bay trong tiếng chuông" - Tuy hình ảnh ở bài thơ của Phạm Ngọc Thái không đến mức sầu muộn, thê lương như hình tượng câu thơ trong Kiều? Song, những "con lá rụng..." đang bơ vơ bay giữa khuông trời đêm cô đơn kia, cũng làm cho lòng ta xốn xang cùng với nhà thơ.
     Những tiếng sóng bên hồ lao xao vỗ theo bước chân anh. Cảnh mưa đó lại được hoà tấu bằng sự đồng vọng của tiếng chuông chùa buồn. Đó cũng chính là tiếng lòng thương nhớ của anh thi sĩ, với người con gái đã xa xăm.
     Ba cái cảnh: Trời mưa, tiếng chuông và sự cô đơn - Tạo nên một bản tình xô-nát âm vang trong trời đất. Giọng điệu thi ca ngân nga:
                       Tiếng chuông buồn lại hoá bản nhạc thơ
     Tôi trở lại với đoạn thơ đầu:
                       Chuông chùa thỉnh lên lời cầu nguyện
                       Nam-mô-a-di-đà!
                       Trong khúc mưa bay âm vang trời đất
                       Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là...
     Suốt bài thơ, làn mưa và tiếng chuông chùa cứ thao thiết trong nhau, hoà vào tâm tình của người thi sĩ. Cái tiếng chuông thỉnh lên lời cầu nguyện "nam-mô-a-di-đà" ấy: Phải chăng cũng là tiếng khắc khoải nguyện cầu, thao thiết trong anh? Anh đi trong khúc mưa bay với một tâm hồn trống trếnh, chơi vơi: Nửa tỉnh, nửa mê cũng thể như là... /-  Sự mơ màng như thể đang dẫn người đến bên cửa phật. Một bài thơ tình ở chốn thánh thần, làm cho tình thi vừa thân thương lại thêm màu huyền hoặc.
     Đến đoạn thứ ba thì người mới thực sự tả về em:
                       Thoắt tình đã vào xa vắng
                       Mình anh với bóng nhớ hoài em
                       Hồn như cánh chim vô định
                       Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang.
     Bóng người con gái hiện ra cũng rất hư hao. Chỉ nhìn thấy trong làn mưa, mái tóc em đang vương bay. Tâm hồn nhà thơ thì như “cánh chim vô định" - Nghĩa là mông lung, không có bến bờ, cõi vô cùng. Một tâm hồn lạnh lẽo, cô liêu! Hình ảnh thơ như ẩn, như hiện... đưa ta hút sâu vào cùng tâm trạng nhà thơ. Cũng chẳng khác là bao với tâm trạng của kẻ nhớ người ở tận phương trời, trong Chinh Phụ Ngâm:
                       Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt
                       Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
     Hình tượng thơ của bài "Mưa bay trong tiếng chuông" được sử dụng đầy chất hội hoạ: Hồn vô định, mưa mênh mang, khúc mưa bay, vọng giữa mưa đêm, khuông trời, gió... trăng... dìu dặt, người và bóng, bản nhạc thơ.... Không gian thực mà ảo. Hiện tại và quá khứ đan xen trong nhau, để nói về nỗi tình da diết của nhà thơ với người thiếu nữ đã xa.
      Tôi xin bình sang đoạn thơ cuối cùng:
                       Ôi, tiếng chuông gảy lên bao kí ức?
                       Kia không gian thao thiết gót chân mềm
                       Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
                       Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm.
      Những kỉ niệm trong kí ức tràn về theo tiếng chuông. Hình ảnh người con gái từ câu thơ: Mái tóc em bay, làn mưa mênh mang /- Đến đây, nhà thơ nhớ lại những ngày cùng dạo bước bên người yêu: Kia không gian thao thiết gót chân mềm /- Cả bóng trăng khuya, con gió dặt dìu, tiếng chuông và làn mưa... cùng hoà trong bản tình xô-nát bên hồ ấy:
                       Gió dìu dặt, ánh trăng suông dìu dặt
                       Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm...
     Hai câu cuối thật hay! Với giọng thơ khoan nhặt, cả bản tình như được tắm vào trong vũ trụ của cuộc sống và tình yêu con người. "Mưa bay trong tiếng chuông" như có tiếng ru êm ả thấm vào hồn ta, cho lòng ta say. Một cái say thâm trầm, da diết. Ngôn ngữ và làn điệu tha thiết. Hình ảnh lại hư hao như ở chốn bồng lai, cõi phật! Cuốn hút cảm nhận của ta đắm chìm vào trong đó.
     Trong đoạn thơ cuối: Từ gió, ánh trăng, làn mưa đêm và tiếng chuông chùa... ẩn hiện với bóng hình và bước chân thiếu nữ - Đó là một bản tình ca đằm đìa, xao xiết dưới gió trăng! Như câu thơ đã kết:
                      Bản thơ tình anh vọng giữa mưa đêm
    Một bản tình mưa thật ngọt ngào.

                                                 Thảo Hoàng
                     (Trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN”, 2019)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 28.04.2021 17:11:48 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 10.05.2021 17:24:48
 
                      MỘT TƯỢNG THẦN THỦY CHUNG
 
                                                Trương Vũ Tiến


                    Đảo Hòn Chồng ở biển Nha Trang  (Ảnh: ST)
           TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN  (1)
       
           Núi Mỹ Nhân nằm giữa biển Nha Trang, gần Hòn Chồng.
            Truyền kể: Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó nhiều năm tháng, chung thuỷ chờ chồng. Chồng
            nàng là một tướng cướp trẻ , dẫn theo một đạo quân cướp bể. Thuyền bè của họ bị 
            bão  biển đánh đắm. Đi đã không về.

Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.

Em nằm đây, em hỡi! Em nằm đây
Làm núi đợi ngàn năm cùng với bể
Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời.

Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ
(xin lỗi những mảng đời ta đang có
Đôi lúc thèm được bám rêu xanh).

Gió hút Hòn Chồng, bể sóng mênh mông
Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
Chốn vô cùng. Ta muốn hỏi Mỹ Nhân?

Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại
“Cây thánh giá cuộc đời" anh đặt dưới chân em!

Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!

Cô gái bán hàng trong quán gió chơi vơi
Cứ nhìn khách đôi mắt tròn đen láy
Đã kể tôi nghe, chuyện về nàng Mỹ Nhân thuở ấy!
Nghe trong chiều gió cuốn bụi đường bay...

 

Lời bình: Đứng trên Hòn Chồng vào buổi sớm mai, mặt trời lan toả những ánh nắng vàng rực rỡ. Nhìn ra một dải núi nằm giữa biển Nha Trang - Người ta thấy nổi lên đôi gò núi, giống như đôi gò vú của một nàng thiếu nữ. Nàng đang ngả mình phơi nắng. Triền núi xanh thoai thoải làm nên thân thể nàng. Khe núi xanh chạy dài xuống mặt sóng, như mái tóc nàng xoã ra biển. Người Sài Gòn lên chiêm ngưỡng cảnh đẹp, gọi là Núi Mỹ Nhân! Nàng Mỹ Nhân nằm ở đó chung thuỷ chờ chồng. Chồng nàng là viên tướng cướp trẻ của một đạo quân cướp bể. Trong một chuyến đi xa, thuyền bè của họ đã bị bão biển đánh đắm. Xác dạt vào bờ hoá thành bãi sỏi đá. Hiện vẫn còn dấu tích tại đó:
                    Bờ Hòn Chồng, quán gió, một trưa chiều
                    Anh đứng dưới bóng dừa xứ sở
                    Nghe cả biển, tình yêu và đời vỗ...
                    Nhúm cỏ lòng xé rách bụi thơ bay.
      Cái bóng nàng Mỹ Nhân vẫn nằm ở đó để làm một tượng thần trong trắng. Giữa chốn đời thường xô bồ mà tạc vào năm tháng:
                    Tình yêu vỗ muôn đời trong sóng vỗ
                    Không vấn vương bụi bặm cõi trần đời
      Những ngày sau chiến tranh. Nhà thơ đã lên đây. Anh còn là một người lính từng trải nghiệm cả tuổi trẻ của mình, trong chiến trận đầy máu lửa. Bài thơ đã được anh nhớ lại để viết vào gần 20 năm sau đó.
      Đứng trước tượng thần Mỹ Nhân trong trắng kia - Anh chính là sự minh chứng của lịch sử. Những thương tích chiến tranh, dù bao bom đạn đã bắn vào thân thể cũng chỉ là nỗi đau thể xác, nhưng nỗi đau nơi nhân tình thế thái này đã bắn vào cả trái tim, tâm hồn anh… còn đau đớn nặng nề hơn. Đó mới chính là vết đạn ngàn thu, bao giờ lành lại được? Cho nên, dừng chân nghỉ lại trước bờ biển đầy sóng gió mênh mang, ngước nhìn nàng Mỹ Nhân - Anh mới thốt lên rằng:
                    Ta, con chim đã trúng bao vết đạn
                    Dừng chân nghỉ bên bờ xanh hữu hạn
                    Chốn vô cùng ta muốn hỏi Mỹ Nhân?
      Anh muốn ngả vào lòng nàng, trong vòng tay êm ái của tình yêu nàng. Phải! Chỉ có nàng, chỉ có tình yêu của người đàn bà mới xoa bớt được vết thương sâu nhói tận trái tim anh:
                    Cho anh hôn lên đôi vú đá tơi bời
                    Dầm dãi nắng mưa ru em trong giấc ngủ.
     Nhưng trong cuộc đời thực này: Tình yêu của nàng Mỹ Nhân âu lại cũng chỉ là mộng ảo? Dẫu vậy, anh vẫn muốn ngủ trong tình yêu ấy để quên đi chốn nhân tình thế thái. Quên hết đi cái cõi đời mệt mỏi, hỗn loạn và đầy rẫy những lo âu:
                    Xin lỗi những mảng đời ta đang có
                    Đôi lúc thèm được bám rêu xanh...
    Tôi xin đi sâu phân tích vào đoạn thơ thứ năm của bài:
                    Bóng nàng nằm trơ mãi cái nước non
                    Lòng nguyệt tỏ tháng năm mòn đá sỏi
                    Niềm vĩ đại lại vô cùng man dại...
      Hình ảnh của đỉnh núi Mỹ Nhân nằm giữa biển khơi xanh, chờ người chồng đi xa mãi, không trở về? Tình của nàng chỉ có vầng nguyệt tháng năm soi tỏ. Dù sông cạn, đá mòn, nàng vẫn thuỷ chung. Ôi, sự hoang dại tạo hoá chẳng phải là đỉnh cao hùng vĩ muôn đời, trong thế giới hỗn mang mà chúng ta đang sống hay sao? Đó cũng là chính kiến của nhà thơ trứơc thần tượng vĩnh hằng! Sự thần tượng tình yêu với người đàn bà đã được tác giả dồn nén vào trong câu thơ cuối đoạn:
                   “Cây thánh giá cuộc đời" anh đặt dưới chân em!
      Người Nhật thì đặt thanh gươm trên đầu người đàn bà. Người Pháp lại đặt thanh gươm dưới chân người đàn bà. Cho nên, nhà thơ mới phát biểu quan niệm, chính kiến của mình về sự tồn tại trong thế giới này: “Cây thánh giá cuộc đời"  anh đặt dưới chân em!/- Đến đây tình thơ đã được đẩy cao lên ý nghĩa thời đại, hình ảnh thơ bốc lửa và cháy sáng. Cùng với đoạn thơ thứ sáu, làm thành hai đoạn thơ trung tâm, cốt lõi nhất của bài. Tôi phân tích tiếp về đoạn thơ thứ sáu ấy:
                    Hồ yêu tinh và đàn bà nơi trần thế
                    Vừa là tiên vừa là quỉ, nàng ơi!
      Đàn bà, đúng là cuộc sống không thể thiếu được họ. Thiếu họ, cuộc đời ta sẽ trở nên hoang tàn, vô nghĩa. Nhưng chính đàn bà cũng đem đến cho ta bao mệt mỏi. Có nhiều khi ta chỉ muốn vào quách trong chùa để đi tu, sống cho yên. Có họ và không có họ đều dở cả. Họ là thiên đường trong cuộc đời ta, nhưng cũng là âm phủ. Họ vừa là tiên nữ, lại vừa là quỉ dạ xoa. Chả trách, thi sĩ Tản Đà đã từng một thời tìm đường lên núi định tu tiên, dứt bỏ chốn hồng trần. Nhưng rồi ông vẫn lại phải quay về với cõi đời thường, để sống tiếp cuộc đời chán chường với bao nỗi đoạ đầy. Vì lẽ đó, đứng trước đỉnh núi Mỹ Nhân thanh cao, nhà thơ mới thốt lên:
                    Nếu có thể sống chung đầu bạc răng long
                    Anh nguyện với nàng cả đời vui thú
      Tình chan chứa, hình ảnh sinh động làm cho bài thơ sâu sắc nghĩa đời,  gắn liền vào cuộc sống. Trước Núi Mỹ Nhân thật sự là một bích phẩm. Tình thơ đã đạt đến độ viên mãn để lưu lại cho nền văn học nước nhà.
 
                                              Trương Vũ Tiến
                          (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014) 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 10.05.2021 17:38:26 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 13.05.2021 13:23:31
 
                              CHÙM THƠ CHỌN 6 PNT
 
 
 
         CỬA QUÁN

Bà chủ quán bước lên xe mô-đéc
Đeo kính gọng vàng

Những cô gái ngồi ở lan can
Mặc toàn váy ngắn
Mùa thu rơi
                     sau kính…

Anh thi sĩ hoá thằng gù
Nhà thờ
Đức Bà
Pa Ri!
 
 
 
       KÍ ỨC MÙA THU

Mùa thu khuấy lên bao kí ức
Xác thời gian trôi trên tóc em
Em đi trong trăng… mùa thu thổi gió…
Lá vàng rơi mênh mông

Em đi qua mùa thu không gian
Trăng rãi đồi con gái
Nhớ đến lâu cái hương con gái
Nó thơm say và rất nhẹ nhàng

Đường dạo ấy trên đồi trăng sáng
Đêm chia tay em dúi cả vào anh
Để bóng lạc suốt đêm ngoài phố
Mây lãng phiêu mãi không về…

Giờ đây chắc trên đồi thông đó
Gió vu vi và trăng vu vơ
Em đi trong trăng, mùa thu thổi gió
Mùa thu lang thang chẳng bến bờ.
 
 
 
         TRƯỚC NÚI MỸ NHÂN (2)
                
Em nằm trong tiếng sóng vỗ bao la
Làm núi đợi! Lặng im cùng năm tháng
Tình yêu ấy hoá tượng thần trong trắng
Khi thế giới ta thay đổi đủ sắc màu

Bóng em nằm vời vợi cao siêu
Chối bỏ hư danh và không tính toán
Thiên thai ấy - Cuộc sống xô bồ này
Đâu là lẽ sống?
Máu trong người với đá, thứ nào hơn?

Em là cái đích cuối cùng, ta hướng đến triệu năm
Triệu năm nữa chắc chỉ là ảo ảnh
Tình yêu văn minh: Gia tốc hợp, gia tốc tan
Đỉnh núi Mỹ Nhân ơi!
Ta quấn lên đầu nàng thêm một vành khăn trắng…

Ta từng yêu em ta cả tâm hồn bão loạn
Để cuối cùng thân số vẫn cô đơn!
Ta từng say bằng thứ rượu whisky choáng váng
Tỉnh lại rồi xin quì gối trước sơ nguyên

Ta đã yêu em cả trong phản bội
Với tình yêu không thể gì đánh đổi
Vì trần đời là thế, nàng ơi!
Chỉ có mỗi trái tim
Vừa hoá đá cho thơ. Ta vừa phải làm Người!

 
                                   Hồ Tây
 
         THIẾU NỮ ĐI TRONG CHIỀU MÂY

Hoàng hôn buông tím đổ mặt hồ
Gương nước xôn xao với nhà thơ
Lá bay xào xạc khua vọng gió
Một cõi lòng ai tận bến mơ

Em đi bảng lảng bên Hồ Tây
Đôi mắt huyền trong gió heo may
Dáng em mềm mại như nhành liễu
Cô gái chiều mây khuất đám cây

Tiếng mõ chùa buông nơi ngả vắng
Thiếu nữ nghe mà vẫn lặng thinh
Để cả lòng ai thầm vương vấn
Nào phải mình anh bước cô đơn?

Ôi, Hồ Tây! Chiều mây sương buông
Thiếu nữ đi rồi, trời khóc không?
Thơ anh từng giọt tan trong nước
Hồn trôi vào gió, tới nơi em…
 

                         Cửa Đền Quán Thánh

 
       TIẾNG ẾCH  (*)
              Tối đó, tôi nhớ tới ông hoàng tử thi ca Xuân Diệu:
            Với những vần thơ tình một thời, còn sống mãi
            trong nền văn học nước nhà.    
 
                                   *
Đêm nghe tiếng ếch vọng đền sang
Mấy đám mây đàn bay lang thang
Nguyệt cũng cười tình đi tứ xứ
Sân nhà có kẻ đứng trông trăng

Đêm nghe ếch trầm trầm hồ nước
Buồn như con trống cô đơn 
Tóc ai vương trong gió êm đềm
Tình năm ấy, em về quyến luyến…

Cái tiếng ếch kêu hoang mà yêu mến
Để cuộc đời đang sến bỗng xôn xao
Với đôi hồn ong bướm nghiêng chao
Hoá mây trắng trôi mãi vào vô định

Em đã đi! Rất xa, không thể nào cứu vãn
Anh nhặt lên đôi mảnh vỡ, hoang tàn
Cái tiếng ếch lẫn vùi vào bụi cát
Giọt thơ lòng
Anh xoã tóc
Áp môi hôn...
……                                     

(*)  Đêm mưa gió. Cái tiếng ếch vọng sang từ đền Quán Thánh, bên kia Hồ Tây… nghe thật não nùng. Trên đầu bóng nguyệt trôi nhàn nhạt. Đêm hoang xơ. Em lại về với tôi: Mái tóc em bay, tình em quyến luyến… giữa một đống tro tàn, đổ nát cuộc đời. Hồn mây trắng tôi trôi mãi vào nơi vô định.
 
 
      TÌNH THƠ GẶP LẠI Ở TÂY HỒ

Em trút lá hay hoa rụng cánh
Nước hồ xanh ngắt cả mùa đông
Hỡi người con gái thời xa vắng
Sớm mai này, anh gặp lại em

Cái tuổi học trò ngủ quên vào gió cát
Sáng Tây Hồ đánh thức lại trong nhau
Anh xin được đưa em về bến hát
Phơ phơ mây đã bám hai đầu

Nếu có thể anh sẵn sàng đánh đổi
Cả cuộc đời để lấy lại em
Em vẫn trẻ như hồi thơ dại
Vô tư nhè nhẹ tựa vầng trăng

Anh vẫn ngủ giữa lòng em, em biết đấy !
Tháng năm qua, một cuộc chiến chinh dài
Bao dĩ vãng xanh thềm rêu gió thổi
Lửa bỏng chân trời xé nát cuộc đời trai

Anh đã đi những miền quê xứ sở
Gặp những con người và những yêu thương
Tình trong trắng trong lòng không xoá nổi
Bụi thời gian rơi rã xuống tâm hồn

Xin giữ lại xinh tươi thời con gái
Tạo hoá cho mình để mà yêu !
Gặp nhau vẫn biết rồi xa mãi
Xa bao nhiêu càng nhớ bấy nhiêu

Xin giữ lại dấu hoen, trên làn môi nước mắt
Vòm ngực đàn bà lắm lúc có xanh xao
Những kỉ niệm như thu về, lá trút
Ta hôn nhau mưa đẫm trắng hai đầu

Anh lặng lẽ hớp lấy từng sợi nắng
Giọt mưa tuôn hay lệ em rơi ?
Tình em thắm hay lòng em rã cánh
Hồ xanh ơi, ướt hết cả đông rồi !

Ba mươi năm… thời gian trôi qua trôi...
Anh quì xuống giơ hai tay đón lấy
Những cái lá: lá xanh, lá vàng
Những cái lá như mầu hoa lửa cháy

Của một đời người con gái đã tàn phai 
 
 
 
      TRONG BÓNG CÂY NGỦ ĐÊM

Anh thức dậy khi bóng cây còn ngủ
Lòng đơn côi chợt nhớ về em
Những nhà ga như có ai mở cửa
Con tầu chuyển bánh…một mình anh !

Quán cô quạnh... suốt đời nghe gió hú
Trăng chết đuối rồi... trắng dại... đang trôi...
Mây lang thang dưới chân trời bão tố
Thành phố chìm trong đêm xa xôi

Em trở lại mong manh như huyền thoại
Vuốt ve trái tim đau nhói của anh
Nghe xáo động âm vang thành phố
Bằng hồi chuông nơi Thánh-đường-trắng-trinh

Trong bóng cây ngủ đêm
Có một loài hoa không ngủ
”Loài hoa yêu” xếp đầy cánh hoa đau
Hương đã theo anh và con tầu chuyển bánh
Đến vô cùng mà chẳng biết đi đâu ?

Anh khốn khổ cầm tù con tim khốn khổ
Nó muốn bay đi, được âu yếm như xưa
Tiếng quả lắc đồng hồ ném thời gian ra gò gió
Rồi hát ca trên các bãi vô vi

Trong bóng cây ngủ đêm...
Nghe cả sinh sôi cùng tàn rữa
Bướm mộng mơ về đậu mắt môi em
Những ô cửa bật tung, tiếng còi vẫn rú
Và con tầu chuyển bánh đến xa xăm

 
 
 

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:40:02 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 13.05.2021 17:38:24
 
                      KHÁT VỌNG CỦA TUỔI HOA NIÊN
 
                                                     Ngọc Bích
 

            ĐÊM TÓC ĐÁ
 
Nửa đời tóc hoá thành đá cả
Rụng vãi thềm đầy phủ quanh trăng
Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ
Mà nay gò mả, ma rừng…

Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu
Có của nhà vẫn còn ham tơ nhú
Ngồi chẳng yên. Hồn, dạ cứ vi vu

Trên kia nguyệt không quần như đã...
Đêm thơm chùa. Trắng dã tấm thân nga
Trinh tiết thời nay em mở cửa
Ngai vàng còn “dưới” cái em ta!

 
    Bài viết trích tập "PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019

Lời bình: Dường như ban đầu - Nhà thơ chỉ có ý định viết chơi. Mái tóc thời tuổi trẻ của anh, đã từng dan díu với bao nàng thiếu nữ xinh đẹp. Thế mà giờ đây:
                     Nửa đời tóc hoá thành đá cả
                     Rụng vãi thềm, đầy phủ quanh trăng
    Chỉ còn biết ve vãn bên các bà gái goá. Buồn đến chảy nước mắt:
                    Nhớ một thuở cùng bao thiếu nữ
                    Mà nay gò mả, ma rừng…
     Đau xót lắm chứ! Nhưng câu thơ sau thì lại thật thi ca:
                    Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu 
     Nhịp thi ca khá uyển chuyển và phong hoa. Tuy mô tả những dòng nước mắt lã chã rơi xuống mùa thu của đất trời, nhưng lời thơ du dương. Nó đối lập với câu thơ khốc liệt trên mà tạo thành tứ hay. Ta hãy đọc lại cả hai câu:
                    Tai nghe tóc ve bên bà gái goá
                    Nhặt câu thơ rơi, lệ lã chã mùa thu
      Sự chuyển đổi giọng và nhịp của những câu thơ như thế, mang nhiều tính nhạc. Kết hợp với nghĩa thơ gây một âm hưởng của sự rung cảm trái tim, đưa thi phẩm trở thành một bản thơ trữ tình. Những câu thơ rơi được tác giả nhặt lên ấy, hoà với dòng lệ đời chảy xuống mùa thu xao xiết buồn: Mùa thu của  tình yêu… muốn được mơn trớn, vuốt ve:
                     Có của nhà, vẫn còn ham tơ nhú
                     Ngồi chẳng yên. Hồn, dạ cứ vi vu
     Đành rằng “của nhà” thì lúc nào cũng sẵn! Song, trong dân gian thường nói: Trai nào mà chẳng ham của lạ cơ chứ? Chẳng phải chỉ của lạ mà còn thích em trẻ nữa. Bởi vậy, dù bước vào tuổi hoa niên, thi sĩ vẫn còn “ham tơ nhú…” là vì thế! Nhưng đọc lên, ta chẳng những không chê trách mà còn cảm đồng với nhà thơ.
       Sang đoạn thơ cuối của bài – Được biết, nhà thơ Phạm Ngọc Thái cùng gia đình ở ngay bên đền Quán Thánh, nên mới có hình bóng chùa chiền trong bài thơ này. Nhưng hình tượng “chùa” ở đây, còn để nói về tính thiền của thi ca. Lúc này nhà thơ đã luống tuổi. Cái tuổi ham thú cảnh sống thiền, hương khói chốn phật đài. Song tác giả lại là một anh thi sĩ, tâm hồn lãng mạn. Bởi vậy, cái hình bóng nguyệt ở trong đêm chùa này đã được hóa thân, để hòa hợp với tâm trạng khao khát tình ái của người:
                    Trên kia nguyệt không quần như đã
                    Đêm thơm chùa, trắng dã tấm thân nga
     Hình ảnh “trắng dã” là để biểu tượng cho sự khỏa thân của nguyệt – Ý của câu thơ là: Vào đêm chùa thơm hương khói. Nhìn lên thì thấy chị Hằng Nga lại đang cởi truồng… bay trên bầu trời. Nếu ta bóc câu thơ ra, có nghĩa: Sau một cuộc tình trăng gió… Chị Nguyệt trên không trung vẫn chưa kịp mặc quần? Nên mới để lộ cả tầm thân “trắng dã”. Hình ảnh của hai câu này rất hay! Thông qua cảnh để diễn tả khát vọng tình yêu của thi nhân. Thơ đọc chẳng những không thô mà vẫn tạo thành thi vị.
     Có thể coi “Đêm tóc đá” là một bài thơ tình lãng mạn, ẩn chứa một nỗi lòng hiu hắt và khát vọng tình yêu !? Của một con người khi bước vào tuổi hoa niên: Tuổi của sự cô liêu!
     Nhưng ngòi bộc phá của bài thơ lại nằm ở câu thơ kết? Nó chứa cả tính “nhân tình thế thái”:
                     Ngai vàng còn “dưới” cái em ta!
     Một câu thơ cay độc rất Hồ Xuân Hương !? Mang cả ngai vàng vua chúa… đặt dưới “cái” của đàn bà - Ngai vàng là biểu tượng cho quyền lực tối cao của một chính thể: Suy cho cùng, chẳng có cái gì bằng… “cái ấy” của đàn bà.
     Ý trong nghĩa đen: “cái ấy” là khởi điểm cho cội nguồn của sự sống - Tức là khởi điểm cho cả chính trị và triết học…
     Về nghĩa bóng: Câu thơ bọc chứa một ý nghĩa xã hội. Chính câu thơ kết ấy? Đã nâng tầm vóc thi phẩm “đêm tóc đá” lên cao trong hàng bậc của thi ca.
 
                                                      Ngọc Bích
                      (trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN” 2019)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2021 17:46:00 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 13.05.2021 18:26:44
 
                   TIẾNG HÁT TÂM TÌNH CỦA ĐÔI TRAI GÁI
 
                                                       Ngọc Trâm 


 
              THÔNG VÀ BIỂN
Cuộc sống như đoàn tàu nghiền ta tan nát
Con sông thời gian, có mùa thu xanh và bèo cỏ dềnh trôi
Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi
Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi!

Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu!
Kéo đoàn tàu chạy ngược phía hư không
Tháng năm xa… Em hoá biển vô cùng
Cùng dấu trong lòng “một loài hoa” tan vỡ!

Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ
Thân xù xì, nắng héo, mưa giông
Gió khát màu trắng tinh da nguyệt
Cái thời vú biển hãy còn non…

Thời con gái em lưu lại an-bom
Đừng buồn nhé! Thành đá chẳng bao giờ già cả
Anh vẫn ngủ giữa hồn trinh nữ
Nhìn tóc mình biết tóc em phai

Vỗ mãi anh thành cát mất thôi
Tình chỉ mộng. Đời cũng là hư ảo
Biển xa xót, dịu dàng và sóng bão
Lời anh ru như gió thổi mây ngàn...   
                 
 
         Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014

Lời bình:   Cây thông trên bờ biển là hình tượng người con trai. Biển ở đây, chính người con gái ấy! “Thông Và Biển” là tiếng hát tâm tình, thủ thỉ của người con trai với người con gái:
                      Cuộc sống như đoàn tàu nghiền ta tan nát
                      Con sông thời gian, có mùa thu xanh và bèo cỏ dềnh trôi
      Vào đầu bài thơ, ta nghe như có tiếng của đoàn tàu chạy xình xịch - Tác giả  mô tả về sự hung dữ của cuộc sống, giống như một đoàn tàu nghiền đời ta thành tan nát. Sang câu thơ thứ hai là hình ảnh về "Con sông thời gian...": Nhịp thơ được trải ra như mặt sóng chảy tràn xuống nhẹ dần, đỡ lấy sự rền xiết của câu thơ thứ nhất. Hình ảnh "mùa thu xanh" làm biểu tượng cho niềm vui sướng, êm ả, hạnh phúc. Còn cảnh "bèo cỏ dềnh trôi" để nói đến những vật vã, tạp nhạp, bức bối đời thường. Đó là hai hình tượng tương phản, lấy trong thiên nhiên để biểu thị cho những mâu thuẫn của đời sống. Đọc lên lời thơ vẫn êm và nhẹ. Cảnh vật có ánh sáng đang cùng chảy trôi trên con sông thời gian. Con sông cuộc đời. Nỗi tình sâu lắng bên trong những hình ảnh, lời thơ.
      Vậy chỉ bằng hai câu thơ mở đầu - Tác giả đã khái quát về năm tháng và sự sống. Đây là một bài thơ tình được viết ra từ trong cõi lòng và trái tim đang bị dầy vò bởi sự cô đơn:
                      Anh đứng làm cây thông trên đá, sỏi
                      Vi vu kêu... tình thiếu nữ qua rồi!
      Nhà thơ vọng hát về mối tình xưa. Ta bỏ cách đoạn hai. Tôi bình trước đoạn thơ ba:
                      Biển thì xô. Thông suốt đời quạnh quẽ
                      Thân xù xì, nắng héo, mưa giông
      Tình yêu không bao giờ yên lặng? Cũng như biển cả cứ gào thét, xô vỗ xung quanh cây thông đứng quạnh quẽ suốt đời. Năm tháng để lại sự mỏi mòn, trống vắng và nuối tiếc trong lòng anh. Chàng chai sạn, xù xì như thân của cây thông, chịu đựng trong "...nắng héo mưa giông":
                      Gió khát màu trắng tinh da nguyệt
                      Cái thời vú biển hãy còn non
      Rõ ràng đây là thời nhớ về thuở em còn trinh nữ, qua hình ảnh của biển cả. Cái làn gió khát khao đang mơn man xung quanh "màu trắng tinh da nguyệt" kia: Chẳng phải cũng như ngày nào chàng vẫn từng mơn man xoa trên... đôi "tí" của người yêu? Bởi vì ngay câu sau đó, hình ảnh “vú biển” bỗng nhiên được nhảy vào trong thơ. Nếu như cả bài thơ người con gái được hoá thân thành biển, thì đến đây… Chất đời tràn vào hình tượng biển, trả lại thân thể cho người con gái ấy! Thuộc lối thơ " thi cảm tượng trưng".
  Lại nói về biển mà có...vú, thật siêu hình. Lại còn là thời "vú biển hãy còn non"? Như trên đã nói, thời ấy em vẫn còn trinh nữ. Từ biển, người trinh nữ đi ra - Vú nàng nguyên khôi, non tươi như hoa trái. Như thế, hai câu thơ trong cặp hình ảnh đồng điệu này, diễn tả chung về một biểu tượng: Đôi vú của người yêu! Thơ trở thành có da, có thịt. Đó là những cảm xúc đã mang sự ham muốn về thân thể của người yêu. Tình thơ mãnh liệt hơn.
      Nếu ví như ánh sáng qua một chiếc gương kính hội tụ - Thì hình ảnh của hai câu thơ ấy chính là điểm hội tụ, phản quang ánh sáng của cả bài. Tình thơ trở nên xao xuyến, có hồn và có xác. Làm cho mối tình trong “Thông và biển” thêm sống động. Tôi xin quay trở lại để bình vào đoạn thơ hai:
                      Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu!
                      Kéo đoàn tàu chạy ngược phía hư không
                      Tháng năm xa… Em hoá biển vô cùng
                      Cùng dấu trong lòng “một loài hoa” tan vỡ!
       Loài “hoa tan vỡ” ấy chính là "hoa trái tim"! Ngàn năm thông đứng reo với tiếng sóng biển gào bằng trái tim của cả đôi trai gái. Chẳng phải để tạc tình yêu ấy vào trong  đất trời đó sao !? Cho nên:
                      Cuộc sống - Tình yêu: Trái tim ta vĩnh cửu!
       Và hình ảnh đoàn tàu ở câu thơ mở đầu, giờ quay trở lại trong đoạn thơ này. Cái đoàn tàu cuộc sống đó cứ nghiến rít mãi trên đường ray cuộc đời, mà họ đang đi về phía hư không. Tháng năm chỉ còn nghe tiếng sóng biển vỗ vô cùng... Trái tim đôi trai gái thành tan nát.
       Đến đoạn thơ thứ tư - Hình ảnh người con gái đã tạc vào năm tháng mà hoá đá:
                      Thời con gái em lưu lại an-bom
                      Đừng buồn nhé! Thành đá chẳng bao giờ già cả
       Năm tháng trôi qua… Họ không còn trẻ, nhưng tình yêu vẫn đó như đôi trống mái giữa biển khơi. Em mãi mãi trắng trong với mối tình trinh nữ giữa hồn anh:
                      Anh vẫn ngủ giữa hồn trinh nữ
                      Nhìn tóc mình biết tóc em phai 
        Cây thông tháng năm trên bờ đầy sỏi đá cuộc đời, để nghe sóng biển gào thét quanh mình: Cô đơn, khát vọng và xót xa!  Đến cuối bài, tình thơ trở về với làn điệu ru lòng biển xanh:
                      Vỗ mãi anh thành cát mất thôi
                      Tình chỉ mộng. Đời cũng là hư ảo
                      Biển xa xót, dịu dàng và sóng bão
                      Lời anh ru như gió thổi mây ngàn...
       Không có tình yêu cuộc đời thật mà ra ảo và năm tháng hoá hư vô. Bên bờ sóng vỗ khi thì xa xót như lòng biển… khi dịu dàng như người yêu… nhưng có lúc biển lại gào thét đầy sóng bão. Đây là đoạn thơ kết có sức rung động, đưa trái tim ta vào hoan lạc trong một bờ bến vô vi. Dẫu vậy, thông vẫn cứ đứng reo bên biển, gió núi, mưa ngàn để hát mãi về tình em. Nó hát rằng: Trong sự tồn tại của đất trời, vũ trụ cùng thế giới: Tình yêu gái trai là bất tử!

 
                                                            Ngọc Trâm
                               (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2021 18:41:26 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 13.05.2021 22:09:46
 
 
                               MỘT MỐI TÌNH ĐẦY LỆ
                                           Phương Tuấn 
 

                 EM VỀ BIỂN
                              Kỉ niệm K.A:  Người nữ sinh trường SPNN năm xưa.
                                                 Quê hương thành phố biển


Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm không biết đã đi đâu?

Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu.

Tháng năm trôi…tình cũ cháy như khêu
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh.

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
                
 
         Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014   
Lời bình:  Bài thơ kể về mối tình của một em nữ sinh trường Sư phạm Ngoại ngữ với nhà thơ. Nỗi thơ đầy lệ:
                        Em về biển để vùi vào trong cát
                        Nỗi buồn nước mắt
                        Những nát tan vòm ngực đã thương đau.
     "biển" ở đây là thành phố quê hương của người con gái (như trong tựa đề bài thơ đã viết), nhưng hình ảnh biển còn là biểu tượng của bãi-biển-đời-người hay là tình-em-biển-cả:
                        Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả
                        Xô mãi bờ với lá thông reo
      Cái hàng thông năm tháng đứng trên bờ biển hát: Vừa như sự vô tình mà lại hữu tình của thiên nhiên. Con sóng xô nát bờ… khắc khoải mãi về người trinh nữ. Một biển đời đầy sóng bão: Người sống trong nó và... nó có thể nghiền nát con người:
                        Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
                        Mang nỗi niềm không biết đã đi dâu?
     Người con gái ấy đã đi không trở lại !? Hình ảnh "cát" trong bài thơ này mang màu sắc thơ siêu thực - Tức là dạt vào trong chốn " cát bụi đời người ".
       Xin phân tích về đoạn thơ ba:
                          Bờ bãi đời người - Cuộc sống tình yêu
                          Trái tim nhỏ em dựng cả toà sen chân phật tổ!
                          Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
                          Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu
     Tình yêu của em đưa ta về nơi thánh thiện. Em chính là cả toà sen, niết-bàn phật tổ của đời anh! Thế mà trên "bờ bãi đời người", thân phận em vẫn nổi chìm như kiếp rong rêu: Thì ra tình yêu không chỉ mang cho ta hạnh phúc, mà còn là bi kịch đớn đau trong cuộc đời? Đây là bốn câu thơ hay nhất bài! Hình tượng thơ đã đến điểm đỉnh. Nó khái quát nội dung tư tưởng của toàn bài, đưa tấm phẩm bích "Em về biển" vào trong miếu mạo của thi ca.
     Đoạn thơ tiếp:
                           Tháng năm trôi… tình cũ cháy như khêu
                           Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
                           Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
                           Đã thổi thành bão tố ở trong anh
       Tình cũ như ngọn đèn càng khêu càng cháy. Người con trai cũng như cây thông mòn mỏi mãi. Năm tháng dần mục ải - Thì mối tình trong trắng thơ ngây, thơm mát như ban mai của người con gái xưa? Lại hiện về, xoa lên nỗi đau của lòng anh. Hình bóng người sinh nữ cứ lặng lẽ, âm thầm mà cào xé… tưởng như những trận bão lòng không dứt.
      "Em về biển" không đi sâu vào miêu tả tấm thân bên trong của người con gái. Hồi ức chỉ phục lại những ấn tượng có tính điển hình, như:
                        Đôi gót đỏ ánh mắt nhìn thơ dại
    Hay là:
                       Những nát tan vòm ngực đã thương đau
    Nghĩa là, không có những hình ảnh yêu thương trần tục xuất hiện trong tình thi này. Chỉ có những hương vị thơm tho, thanh thoát, nên thơ... nhưng vẫn đầy cảm xúc da diết, mộng mơ, năm tháng không phai nhoà trong anh.
     Đời hiện hữu mà tình yêu lại là ảo ảnh. Cuộc sống chỉ còn là một bãi cát vô vi, trắng phau để những trận bão tố lòng anh thổi mãi không thôi. Đến đây một mảng thơ hiện thực được tràn vào. Tình thơ lại càng thêm tha thiết:
                         Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
                         Anh còn đây. Em hỡi! Anh còn đây,
                         Nhớ những buổi đón em bên cổng trường sinh ngữ...
      Những buổi đón người yêu bên cổng trường... gợi lại bao kỷ niệm. Nó nói về một thời đôi trai gái đã say đắm yêu nhau. Ta có thể mường tượng bóng trăng huyền diệu thuở ấy, bước chân em đi nhè nhẹ, những chiếc lá rơi khẽ khua lên xào xạc. Ôi! Tấm thân của người con gái như một tảng thiên thạch trinh trắng vô vàn, cuốn hút cả những linh hồn. Chạm vào thiên thạch ấy, mọi sức mạnh đều trở nên  mềm yếu để tan hoà thành nước. Ánh mắt, đôi môi, cả cặp "tuyết lê" trắng ngần, trinh khôi của người thiếu nữ, như đôi mỏm núi kỳ vĩ nhô lên làm nên luỹ thành sừng sững nghìn năm. Là thiên kiệt tác nhân sinh của loài người.  Khi ta áp môi hôn, khi đôi bàn tay man dại của tạo hoá đặt vào đó… Nó nóng hổi và huyền thoại...
      Nhà thơ đã từng sống qua nửa thế kỉ. Chứng nhận bao điều lớn lao cùng những điên đảo xẩy ra trong thế giới loài người? Để cuối cùng anh lại quay về, chỉ ngợi ca người yêu bất tử hơn mọi thứ trên đời. Thế mà đời người như bóng câu bay qua trong vòm trời vô định… Tất cả đều tan vỡ lẫn vào trong cát bụi cuộc đời - Như những dòng thơ kết thúc trong "Em về biển" này :
                         Tóc nửa bạc rồi chỉ thấy gió mưa bay...
                         Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!
    Mái tóc sương nhà thơ soi xuống dòng sông vô cùng, vô tận của thời gian. Lẫn nhoà trong tiếng gió mưa phủ kín đất trời. Năm tháng qua đi lặng lẽ mà héo úa, như bao chiếc lá vàng rơi rụng xuống, phủ lên những hồi ức về người con gái xưa: Một nấm mồ tình.
 
                                                        Phương Tuấn
                             (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.05.2021 22:20:22 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 14.05.2021 12:52:08
 
 
                         NHỮNG KIẾP CẢNH THA HƯƠNG CẦU THỰC  
 
                                                            Bảo Ngọc
 

                CỎ  HOANG  

                       Thuở ấy quê người đất khách
                               Trong buổi tha hương mưu tính cuộc đời
                               Tôi đã gặp những người con gái
                               Dẫu yêu kiều, nhưng cũng bèo thôi...

                       (Viết trong đám người xuất khẩu lao động ở nước ngoài)
 
                                                           * 
Cô gái bay đi ngỡ làn mây dại
Trôi lang thang đầu bãi, cuối giời
Em tự do như thể là cát bụi
Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi!

Loài lạc thú phồn vinh hơn gió
"Cơn hồng hoang" thả cỏ xuân xanh
Em phá bỏ những đức qui kiềm chế
Yêu phanh phui, yêu đến tan tành...

Tôi nghĩ: Thôi thế đã thoả lòng ham hố
Khoả thân mây đùa rỡn cả linh thiêng
Huống hồ buổi thường bán buôn đạo lý
Có dễ gì thân gái, trách chi em!

Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian
Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
Ta từng ngợi ca, chủ nghĩa nhân văn chân thiện nhất!
Em gái bay đi vẫn thích "cởi truồng"

Ôi, cuộc bèo hoang trời đất trầm luân
Và bản chất muôn đời còn muông thú…
Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa, cấy linh hồn...

                                       Cuối thập kỷ 80, thế kỷ XX
       
 
         Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014   

Lời bình:  “Cỏ hoang” vừa để biểu thị chất hoang dã của người con gái vừa muốn nói đến những người xuất khẩu lao động ra nước ngoài? Chẳng khác nào những đám cỏ hoang trên đất khách, quê người:
                        Cô gái bay đi ngỡ làn mây dại
                        Trôi lang thang đầu bãi, cuối giời
                        Em tự do như thể là cát bụi
                        Có đôi lần giời cũng khóc, mưa rơi!
      Nghĩa là sự tự do của em như kiểu tự do của cát bụi: xô bồ, hỗn loạn - Đây là những hình ảnh thơ siêu thực. Cảnh bay lang thang đầu bãi, cuối giời tựa một làn mây dại: Ý của nó để nói về sự nổi trôi của người con gái và những kẻ tha hương cầu thực kia. Xin trở lại với bốn câu thơ tựa đề của bài:
                       Thuở ấy quê người đất khách
                       Trong buổi tha hương mưu tính cuộc đời
                       Tôi đã gặp những người con gái
                       Dẫu yêu kiều, nhưng cũng bèo thôi...
      Bài thơ muốn khái quát cái hiện thực chẳng khác nào tấn bi kịch của cuộc sống - Hình ảnh trong sáng, ngây thơ của người con gái đã đắm mình trong đám người hoang dã, buông thả theo chiều gió cuốn:
                       "Cơn hồng hoang" thả cỏ xuân xanh
                       Em phá bỏ những đức qui kiềm chế
                       Yêu phanh phui, yêu đến tan tành...
       Trong cuộc tha hương, những cảnh quan hệ nam nữ hỗn tạp làm cho ta phải sởn gai óc? Đó chính là lớp người ở đáy cùng cuộc sống. Mặc dù nhà thơ cũng đã từng biện hộ cho người con gái:
                       Huống hồ buổi thường bán buôn đạo lý
                       Có dễ gì thân gái, trách chi em!
     Sự xuống cấp của xã hội đã xô đẩy người con gái cùng những đám người xuất  khẩu lao động đến thế! Ta hãy đến với đoạn thơ thứ tư:   
 
                       Hỡi Thiên đường - Địa phủ: Trần gian
                       Loài người mãi sao tràn lan tội ác?
                       Ta từng ngợi ca, chủ nghĩa nhân văn chân thiện nhất!
                       Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng...
      Khi nhà thơ nhìn thế giới mà trong bài gọi là "trần gian": vừa là thiên- đường vừa là địa- phủ, tức là tác giả đã nhìn bằng con mắt của những người lao khổ.  Xã hội vẫn còn bao bất công, tàn ác, đẩy những chúng sinh vào sự khốn cùng. Xin phân tích sâu hơn câu cuối đoạn:
                       Em gái bay đi vẫn thích cởi truồng...
     Thực ra đây là hình ảnh một câu thơ tượng trưng, nói về khát vọng muốn được sống của người con gái? Đồng thời nó còn mang cả bản chất muông thú rất “cỏ hoang” của con người, theo tính chất thuyết Đác Uyn - Cho nên mới dùng câu “…vẫn thích cởi truồng“. Đến hai câu thơ cuối, thái độ nhà thơ bộc lộ quyết liệt:
                       Nhà chính trị cùng đứa du côn tranh thủ chơi thánh nữ
                       Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa, cấy linh hồn...
    Đây là hai câu thơ hay nhất bài! Phản ảnh thái độ nhân văn của nhà thơ, chĩa mũi dùi vào đả phá những kẻ làm chính trị nhưng đạo đức giả. Thậm chí loạn luân không khác gì những đứa du côn. Suy cho cùng, cô gái cùng đám người xuất khẩu lao động kia cũng chỉ là nạn nhân xã hội mà thôi. Hình ảnh:
                       Em vũ ba lê trong thế giới hỗn mang gieo hoa, cấy linh hồn...
       Cái vũ điệu ba lê của người con gái "gieo hoa, cấy linh hồn..." ấy - Có nghĩa,  em chính là  hoa thơm, trái ngọt… trong tình yêu và cuộc sống con người. Song xã hội vẫn đang phải đắm chìm trong đầy rẫy hỗn mang… đầy đoạ lên những kiếp cảnh, bụi bờ của những chúng sinh. Câu thơ huyền ảo như một bức hội hoạ - Nhưng tính nhân văn cùng thế giới quan lại vô cùng sâu sắc, đưa tình thơ viên mãn  đến tột cùng trong ý nghĩa của thi ca.

                                                           Bảo Ngọc
                                 (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)                                    
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2021 13:10:24 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 14.05.2021 18:21:43
 
 
                 TÌNH THƠ VỚI ÁI NỮ SÀI GÒN
 
                                                         Đình Bồng
                                   GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội

 

              CÔ ÁO TRẮNG
 
Anh lại có một cô áo trắng
Mắt nàng nhìn trong biếc mùa thu
Mái tóc xoã, bầu vú nàng hưng phấn
Ngủ đi em, nghe bài thơ anh ru!

Đất Sài Gòn mùa xuân đến trong mơ
Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
Em ơi em, những khi trời trở gió
Có thấy bóng anh về thao thức bên em?

Anh nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
Em khoả thân mình để hoá thành nữ thánh!
Áo em trắng hay là da em trắng
Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên.

Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất
Thế giới văn minh, ta không cần gì hết
Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ.

Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ
Em bọc trong anh, không cần quần áo
Ôi! Nguyệt của em đây, một động sâu huyền ảo
Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong.

Em đừng hỏi vì sao anh yêu em!

Anh lại có một cô áo trắng
Vào buổi hoàng hôn, hoang vắng cuộc đời
Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
Bầu vú nàng, mùa hoa trái sinh sôi...
    
 
         Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014   

Lời bình:  Bài “Cô áo trắng” này không phải tình yêu thuở ban mai? Mà là một bài thơ tình trong buổi hoàng hôn cuộc đời:
                     Anh lại có một cô áo trắng
                     Vào buổi hoàng hôn, hoang vắng cuộc đời
                     Đôi mắt nàng cả trời thu đẹp lắm
                     Bầu vú nàng, mùa hoa trái sinh sôi
     Tôi không rõ “cô áo trắng” còn là một thiếu nữ hay đã là thiếu phụ? Chỉ biết rằng: Nhà thơ cảm xúc về người đẹp mà nảy ra tình thơ, chỉ qua một bức ảnh. Nghe nói, bức ảnh đó cô em mặc một chiếc áo cánh trắng mỏng, bó sát lấy tấm thân thon thả của một ái nữ Sài Gòn.
     Vào mùa xuân muôn hoa đua nở. Nhà thơ thương nhớ người đẹp ở trong mơ:
                     Đất Sài Gòn mùa xuân đến trong mơ
                     Có em tôi đi giữa đêm dài thành phố
                     Em ơi em, những khi trời trở gió
                     Có thấy bóng anh về thao thức bên em?
     Tình thơ chứa chất tình cảm lãng mạn xen lẫn sự ham muốn về thân thể. Khai thác khá sâu sắc. Tác giả diễn tả về cái thế giới bên trong người đẹp, như cả vũ trụ:
                     Đêm Sài Gòn khi ấy sẽ như mơ
                     Em bọc trong anh, không cần quần áo
                     Ôi! Nguyệt của em đây, một động sâu huyền ảo
                     Chứa cả thiên đường và vũ trụ bên trong
     Hình ảnh mang màu sắc triết học, làm cho tình thơ trở nên huyền thẳm. Ngôn ngữ sắc bén, sinh động, tựa lưỡi dao cứa ngọt vào trái tim ta tê tái. Kết hợp với giọng thơ du dương, uyển chuyển: 
                      Anh nhẹ hôn thầm ở dưới ánh đêm
                      Em khoả thân mình, để hoá thành nữ thánh!
                      Áo em trắng hay là da em trắng
                      Có em rồi cuộc sống sẽ vô biên
     Hay là:
                      Ta mặc cho năm tháng chảy, nghe em!
                      Chỉ có anh và em, chỉ có trời và đất   
                      Thế giới văn minh, ta không cần gì hết
                      Em dẫn anh vào buổi hoang muội nguyên sơ
      “Cô áo trắng” là một tình thơ sâu sắc và gợi cảm. Tuy có nơi, có chỗ tác giả đã sử dụng hình ảnh thân thể, như “bầu vú nàng” hoặc “nguyệt của em đây”... Nhưng đọc lên thơ không dung tục. Nó chỉ cốt tăng thêm sự hấp dẫn, đáng yêu và viên mãn hơn.
        Nói chung thơ Phạm Ngọc Thái viết theo cảm xúc, tung toả ở nhiều  khía cạnh trong cuộc sống. Nhà thơ như thể bóc cả mình ra cho thơ tuôn trào như suối. Đi hết gam mà đẩy nỗi thơ đến tận cùng.
 
                                                         Đình Bồng
                               (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.05.2021 18:27:16 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 15.05.2021 18:01:44
 
 
                          CHÙM THƠ CHỌN 7 PNT

 
 
      ANH MÃI YÊU EM
 
Rồi một ngày tên em thành kỷ niệm
Với hình em chao liệng mãi hồn anh
Anh thắp hương giữa trời đất ngả nghiêng
Cho giọt lệ yếu mềm rơi vào gió.
 
Đã từng trải, một cuộc đời đầy bão tố
Cũng bao lần tình đến rồi tan
Tưởng trái tim mình chai sạn chốn nhân gian
Có ai ngờ? Nay tóc hoa râm còn run rẩy.
 
Lại nhớ chuyện thiên tài Nga Pushkin vĩ đại
Đốt lá thư tình, lòng những tiếc thương:
" Ý nàng đây. Sao ta mãi phân vân ?
... Niềm vui sướng của ta cho ngọn lửa ?... " (*)
 
Trong bể sống, em ơi! Tình yêu đầy sóng gió
Nhưng không tình, ta biết dựa vào đâu?
Trong tình yêu còn bao sự nhiệm màu
Nâng tâm hồn ta bay tới chân trời khát vọng.
 
Em hãy trải lòng, nhìn ra bốn phương gió lộng
Cuộc đời không chỉ quẩn quanh việc kiếm sống, áo cơm
Rồi ngày mai thân xác đã héo tàn
Vào cát bụi khác gì thân gỗ mục.
 
Tình yêu giúp cho em, đôi cánh thần kỳ để sống
Vượt qua phong ba, đến tòa tháp tương lai
Hình hài em dù xinh đẹp mấy hôm nay
Rồi cũng lụi phai, úa nhàu trong cô quắt.
 
Em không tới được chân trời mơ ước
Vượt qua bể khổ rồi thì nghĩa gì đâu?
Một bà già lầm lụi ở mai sau
Tiếc tuổi xuân, tiếc đời, chôn vùi cùng khát vọng.
 
Khi đó, em ơi! Đau tận cùng kiếp sống
Sẽ trôi như dòng nước bùn ao
Em ngửa mặt lên than, liệu trời có nghe tiếng em kêu?
Chỉ còn biết ngậm đau, để cho là "số phận"!
 
Đến lúc ấy ở phương trời xa,
           dù anh vẫn muốn đón em về cùng tủi hận
Với trái tim tình còn tha thiết yêu em
Thì em ơi! Chỉ biết bên nhau, ngậm ngùi những tiếc thương
Có luyến tiếc đời em, cũng trở thành vô nghĩa.
….                
 
 (*) Thơ trong bài "Lá thư bị đốt cháy" của Pushkin
 
 
 
           ĐÊM THU PHỐ VẮNG

Đêm phố vắng anh đi, hay là em không ngủ?
Thu đến rồi lay động trái tim
Xào xạc lá, anh nghe xào xạc lá
Thăm thẳm bóng hình em trong đêm.

Anh lại dẫn em, con đường yêu cũ
Một thời nào từng in dấu chân thon
Trước tình yêu, ta hoá thành đứa trẻ
Dẫu mái tóc anh giờ đã hoa sương.

Ta sẽ viết cho ai, bài thơ đêm thu vắng?
Tiếng trong khuya em gọi vọng rất xa
Trên thảm lá lòng ta say đắm
Tha thiết bên em, vì không muốn đêm qua…

Ôi, bài thơ cứ theo anh lang thang trong phố
Ký ức hồi sinh về với tuổi xuân xưa
Em lại ru êm như thuở trẻ
Tấm thân mềm đưa anh vào bến mộng mơ.
 
 
 
 
   ANH ĐAU XÉ LÒNG ĐÀNH QUAY GÓT
 
Ta bỗng thấy lòng ta nhẹ bẫng
Trút cơn sầu. Cánh chim vụt bay lên
Hãy bay đi! Bay tới tận Hoàng Thiên
Rồi đậu xuống một vầng trăng huyền ảo.
 
Người lữ khách rũ bụi trần, xa huyên náo
Quên phàm tình. Nhìn bốn phía mênh mông
Vẫy tay chào! Ở lại nhé, em thương
Mình chia tay, biết có ngày trở lại?
 
Cũng không phải là người rồ dại
Đã yêu em tự đáy lòng anh
Em đến với anh bằng tình thắm chân thành
Bao giây phút nồng nàn, trao nhau không tưởng tiếc.
 
Thì vẫn biết, em cố ghìm tiếng khóc
Lòng anh đau như dao cắt, kim đâm
Ta trách trời ư? Trời có thấu đâu em
Tại số đó, nếu không thể bên nhau mãi mãi…
 
Anh những muốn cùng em xây dựng lại
Em giận hờn, phẫn chí buông xuôi
Trái tim anh tưởng vỡ làm đôi
Cố gắn lại. Mỉm cười nhìn số phận…
 
Anh cũng biết đời em còn lận đận
Mang tình yêu làm chỗ dựa hồn em
Lòng dạ đàn bà, không thấu nổi bên trong
Vẫn cần anh sao mãi còn tấm tức?
 
Cuộc chia tay đẫm nhòa nước mắt
Nói làm gì! Ai mất nhiều hay ít hơn ai
Rồi ngày mai ngoái lại tiếc hoài
Rơi dòng lệ bên mộ người tri kỷ.
 
Đời anh đó, đỉnh thi sơn kỳ vĩ
Tháng năm cùng nhân thế, không em
Anh bay lên chín tầng cao mà kiếp cô đơn
Em ở lại dưới trần hiu hắt bóng.
 
Cuộc phân ly hai đứa đều lạnh cóng
Nhưng cứ yếu hèn, biết sống làm sao?
Ừ, thôi... thì quên nhau, mặc cho máu tim trào
Làm kỷ niệm in sâu vào trí não.
 
Thơ càng viết, tình dâng thành giông bão
Phút nhớ nhung viết gửi vào thơ
Em giữa đời chịu cảnh sống bơ vơ
Anh đau xé trong lòng, đành quay gót...
 
 
 
 
           EM  LÀ NGƯỜI TÌNH CỦA LÍNH
                                        Tặng ca sĩ Thanh Trúc
 
" Nếu em không là người yêu của lính " (*)
Tiếng hát em đưa thuở còn chinh chiến
Nửa đêm nay, anh thức dậy để nghe
Giọng hát ngọt ngào, giọng hát ru xa.
 
" Nếu em không là người yêu của lính
Ai đem cánh hoa rừng về tặng em
Ai trong gió sương cho em đợi chờ
Và đến lúc anh về... Ai kể chuyện đời lính, em nghe! ". (*)
 
Anh đi qua cả cuộc chiến tranh xưa
Vẳng tiếng hát em, giữa rừng già năm ấy
Nay nhớ lại lòng thương biết mấy
Ôi, tình yêu của người lính muôn năm.
 
Bài thơ này anh viết tặng em
Cô ca sĩ một thời của lính                        
Nghe em hát, dạ cồn cào cảm mến
Anh gửi tình mình cho Đất mẹ - Quê hương.
 
Ta không mong gì bom đạn, chiến tranh
Đã dìm dân tộc vào trong bể máu
Nhưng tiếng hát em thì ngàn lần yêu dấu
Đời đời... mãi mãi... không quên...
 
Là người tình của lính, phải không em!
Cao quí hơn vạn lần các cung phi, quận chúa
Anh sẽ mang tình em suốt chặng đường thiên lý
Mai rồi sống giữa vô biên.
 
Ôi, Tây Hồ sóng nước mênh mông
Có nghe tiếng hát em tôi, giữa đất trời Tổ quốc
Tới một ngày cả hai ta đều khuất
Bài thơ anh còn sống mãi, ngợi ca em
 
Cô ca sĩ muôn đời của lính. Rất yêu thương.
…..                                                                            
 
(*) Lời của bài hát " Nếu em không là người yêu của lính ".
 
 
 
    TIỄN ANH TRÊN ĐẤT KHÁCH

Đêm đất khách quê người, rơi tuyết trắng
Em tiễn anh về lại quê hương
Thôi rồi, gió lạnh con tim
Tình theo lá rụng, khói sương chân trời.

Đời con gái cũng hoa rơi 
Loài phù du giữa biển trời mênh mang
Tình như một bóng mây hoang
Đời em chiếc bách dập dềnh, gió mưa.

Đường nhân thế mênh mông, cỏ rối
Tình của ta như gió thổi, sương bay
Cuộc đời mưa nắng, em ơi!
Phận bèo thôi cũng nổi trôi kiếp người.

                                           Berlin 1990 
 
 
 
 
               EM GHEN
 
Anh biết, em yêu anh nhiều lắm!
Anh cũng rất, rất... rất yêu, có phải không đâu?
Nhưng em quá ghen, làm anh phải đau đầu
Yêu cũng thích, mà yêu cũng... khổ…
 
Anh từng bảo: Ta sẽ yêu nhau đến khi xuống mộ
Nhưng... chỉ nhắn tin không thấy anh
Em đã nổi đóa lên. Vùng vằng kêu:
-  Anh đang chát với ai?
Lại dỗi dằn:
-  Ừ, thì em ghen. Bởi quá yêu thôi!
Chẳng lẽ anh thích người buông xuôi, hờ hững?
-  Vậy, cám ơn em! Được yêu, thật sướng…
 
Nếu cứ trách em, cũng chưa hẳn đúng?
Đúng là: Em yêu anh hơn tất cả các cô xưa…
Rồi mai ngày chồng vợ nối duyên tơ
Em sẽ dành cho mình thật nhiều, thật nhiều” - Em bảo thế!
 
Tuổi hoàng hôn anh, xem ra vui đáo để?
Được em yêu, em giận, em hờn
Có khi còn dỗi dài - Bỏ mặc anh luôn
Anh nhớ gọi! Cũng không thèm lên tiếng.
 
Viết mấy dòng thơ, tặng em yêu mến
Ghen vừa thôi em! Kẻo làm tội người yêu?
Anh rất thương cưng trong buổi tình chiều
Đến sưởi ấm lòng anh, những đêm côi lạnh.
 
Ta hòa hợp dành cho nhau, năm tháng cuối cùng cuộc sống
Nguyện mang tình em vào mãi thiên thu
Em là bạn đời, là ánh sáng, là thơ
Đường chân lý anh tôn vinh bằng cả trái tim, cùng khối óc.
 
 
 
 
         TIẾNG RÚC CHIM ĐÊM

                               Những tối trăng ngời, dưới ánh sao khuya
                               Anh vẫn đắm mình về phương ấy
                               Những câu thơ như ngôi sao bùng cháy
                               Và cuộc chia ly đã hoá cánh buồm...


                                        *
 Con chim đêm rúc mãi ngoài cây
Nó nói gì không biết ?
Chắc con mái ham nơi vui thú khác
Đã không về. Con trống gọi suốt đêm...

Chim gọi đàn - Anh gọi tên em
Năm tháng, nắng mưa, non ngàn, bão tố
Có lẽ nào em không về nữa ?
Để hồn anh hoang mạc, bơ vơ

Đã xa rồi. Mùa dĩ vãng trăng mơ…
Đời vui vẻ cuốn theo dòng gió bụi
Bao ý nghĩa trong cuộc đời tồn tại
Thành quách loài người, em thiêu trụi thành tro !

Ngàn năm xưa cho tới bây giờ
Ta muốn hỏi đến muôn đời sau nữa:
Mọi giá trị vĩnh hằng, nếu có
Sẽ là gì ? Khi thiếu vắng em ta !

Con chim đêm run rẩy bóng xanh già
Anh bổi hổi một thời qua vọng lại
Và tất cả đã trở thành trống trải
Sao em lại phụ bạc tình, con mái thương yêu ?
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:42:14 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 15.05.2021 18:58:39
 
 
                        NGƯỜI CON GÁI VỚI KIẾP GIANG HỒ
                                                                  Trần Ngọc Lâm

 

             EM BÁN XOÀI
                        Nhớ người con gái sống kiếp giang hồ gặp trên
                      bãi biển Nha Trang những ngày sau chiến tranh 1975
 
                                                             *
- Anh trai mua xoài cho em đi?
Nha Trang! Ta nhớ Nha Trang!

Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển chập chờn, kiếp đời các cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh.

Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách…
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Em bán xoài thơm! Em bán xoài thơm!
Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?

Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi
Xoài em thơm. Hương toả mát thân người...
Ai mua xoài? Còn ai có mua em?

Các cô gái đi đêm như các cột đèn
Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm. 

 
          Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014   

Lời bình:  Nhà thơ kể lại: Trong dịp đi qua thành phố Nha Trang những ngày sau chiến tranh 1975 - Vào một buổi tối. Anh cùng một nhóm sĩ quan quân giải phóng  ra chơi trên bãi biển, và... đã gặp những cô gái "bán xoài".  Một em gái trẻ dễ thương, thân hình bó lẳn trong chiếc áo cánh chẽn mềm tới mời anh! Cũng không hiểu sao lúc đó anh lại từ chối?... để rồi bao năm tháng qua đi, hình ảnh người con gái ấy cùng với những kiếp đời sương gió cứ đọng mãi, in sâu vào kí ức anh. Tới một ngày, những xúc động xưa lại quay về? Bài thơ "Em bán xoài" đã ra đời:
                    Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
                    Bãi biển chập chờn, kiếp đời các cô gái lang thang
      Đó là những thân phận lạc loài, nổi trôi trong bể nhân tình thế thái này. Linh hồn gần như không có nơi bám víu, nhỏ bé và yếu ớt, trong cả biển đời đầy sóng bão chỉ muốn nuốt chửng lấy chúng:
                    Biển to lớn. Bóng em nhỏ thẫm.
                    Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
                    Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
     Tác giả tả về cái thế giới mà các cô gái đang đi, đang sống trong đó - Chính là thế giới của chúng ta, nhưng sao nó thật hãi hùng:
                    Thế giới em đi “vòng thiên la địa võng“
                    Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi...
      Phải chăng cái thế giới đó cứ muôn đời vùi dập lên những kiếp cảnh chúng sinh? Phải chăng bài thơ chính là tiếng gào thét, lên án sự tàn độc còn tồn tại trong xã hội này? Nó giống như con bạch tuộc cứ bủa vây đám dân dã, những lớp người nghèo hèn, sống hôm nay không biết đến ngày mai. Mặc dù sự tồn tại của thế giới đó chính phải nhờ vào hương thơm trái xoài và sự tươi  mát của những người con gái kia. Thế mà:
                    Ai mua xoài? Còn ai có mua em? 
     Biển càng to lớn mênh mang thì bóng hình những người con gái bé nhỏ ấy càng côi cút. Bên bóng của những chiếc cột đèn đứng trong đêm thành phố cũng thật lạnh lẽo, nhập hoà vào những thân phận tội nghiệp, đáng thương, để cùng vô vi trong cát bụi cuộc đời:
                    Các cô gái đi đêm như các cột đèn
                    Bóng nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
     Hay là:
                    Dãy cột đèn đứng đêm côi lạnh
     Thơ từ những hình ảnh hiện thực chuyển sang siêu thực. Cuối cùng chỉ thấy một bờ cát trắng là tồn tại. Những giọt thơ buồn của nhà thơ rơi lên các linh hồn bèo bọt ở chốn nhân quần:
                   Xoài em chín. Đêm tàn canh em đón khách...
                   Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi      
    Những thăng trầm của lịch sử và xã hội, cũng giống như chiếc túi càn khôn cứ nghiến xiết đám dân lành tội nghiệp. Bài thơ được kết thúc trong những lời ru, sự cảm đồng của hàng dừa quê hương cùng với nỗi lòng nhà thơ, bên người con gái bán xoài:
                    Biển ru ta và ta ru em
                    Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm.
      Ba chữ "xứ sở gió..." diễn tả sự da diết gắn bó của trời đất quê hương với con người. Nhưng nó cũng thật hoang lạnh, vô tình… Em Bán Xoài vừa là một bài thơ đời vừa thơ tình. Cảm xúc thơ mạnh và súc tích. Giàu tính nhân ái, thương người của nhà thơ.
 
                                                       Trần Ngọc Lâm        
                               (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 15.05.2021 19:05:43 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 16.05.2021 17:21:03
 
 
                              TIẾNG ĐÀN TÌNH THEO BƯỚC CHÂN THI SĨ
 
                                                        Trần Đức                   
                            Nguyên CB Viện ngôn ngữ & Văn hoá dân gian
 
       Tác giả TRẦN ĐỨC
       DƯỚI HÀNG SẤU ĐÊM VÀ CON PHỐ NHỎ

Phố vẫn phố, hàng sấu xưa rụng lá
Ngỡ yên rồi? Còn lạc bước canh khuya
Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...

 Đêm đã lạnh. Vầng trăng còn thao thức
 Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
 Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
 Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?

Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa
Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm

Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
Đi hết phố xa, về khắc khoải bên thềm
Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?

 
          Bài viết trích tập "PNT * Chân dung nhà thơ lớn thời đại" 2014   
Lời bình:  Đi lại đường phố đêm dưới hàng sấu xưa, lòng nhà thơ bồi hồi nhớ về một thuở:
                         Phố vẫn phố, hàng sấu xưa rụng lá
                         Ngỡ yên rồi? Còn lạc bước canh khuya    
                         Nên câu thơ anh theo đông về vội vã
     Bài thơ được viết vào mùa đông năm 2010, khi anh đã ngoài tuổi lục tuần nhưng tâm hồn thi nhân thì còn trẻ mãi. Con sông tình ngày đêm vẫn xao xiết chảy trong trái tim anh, như câu thơ đã viết:
                        Tình của đôi ta dòng sông chảy man mê...
    Chưa thấy ai đảo ngược chữ "mê man" để viết thành "man mê..." như Phạm Ngọc Thái, để âm điệu thơ không rơi vào sự cũ càng. Cũng thấy là lạ, hay hay. Có một nhà giáo khi khi bình thơ anh đã viết:
     “Ngôn ngữ thi ca Phạm Ngọc Thái là ngôn ngữ của hình tượng hội hoạ. Khi đọc những thi phẩm hay của ông, giống như bức tranh hoàn bích. Càng đằm sâu vào trong tranh càng chứa chất ý, tình”.
     Theo con gió đông. Nhà thơ "lạc bước" lang thang, hồn vía bay về phương: Cái  thuở em yêu vẫn cùng anh đêm đêm dưới hàng sấu phố khuya này. Cái phố nhỏ với hàng cây xưa thật thân thiết. Bao năm qua tưởng tình cũ đã yên? Nào ngờ đêm nay… Thi nhân lại chạnh lòng thổn thức - Bài thơ "Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ" ra đời.
     Mặc dù nhà thơ đã nói với mình và khuyên người yêu:
                         Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa
                         Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em?
     Ai mà chẳng có lúc bồi hồi vương vấn tới tình xưa? Nói rằng: "Em đang ngủ bên chồng..." - Nhưng đọc thơ không thấy sượng, còn tăng thêm sự cảm khoái, diễn đạt ý tình thấm thía hơn. Khi nhà thơ tự vấn: … Thôi, đừng tiếc nữa! /- Tức là lòng anh đang nuối, nhớ. Nhà thơ còn biện hộ cả với  người xưa: Mấy ai yêu trọn vẹn đâu em? /- Có nghĩa, đây là mối tình dang dở mà sự tiếc nuối của cả hai người,  chứ không chỉ đơn phương về phía thi nhân.
     Khuyên thế thì khuyên - Song, chính nhà thơ lại tự ru mình trong cõi xa xăm:
                         Thuở đó đẹp nhiều mộng mơ, em nhỉ!
                         Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm
     Tình yêu đã mang lại cho hồn thơ anh bao cảm xúc ngọt ngào. Trong cuộc sống xô bồ, cát bụi... Mỗi khi nhớ về thuở ấy: Thi nhân như được tắm trong niềm hạnh phúc của tình yêu! Như lời thơ đã viết: Thơm mát cõi thơ, hồn ta ru êm /- Tôi trở lại phân tích về khổ thơ thứ hai:
                         Đêm đã lạnh, vầng trăng còn thao thức
                         Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
                         Xưa mộng nguyệt này, nay sao thấy khác
                         Gió nhắc thầm thì, em có nhớ không?              
   Thao thức cùng với nhà thơ! Vầng trăng trong đêm đông giá lạnh kia cũng có ngủ được đâu? Vẫn là “nguyệt” đó mà sao nay thấy lạ - Hồi cùng em tắm trong trăng, thật êm đềm và mơ mộng. Giờ với anh, trở nên xa vời và cô quạnh quá. Cơn gió khuya cũng không ngủ, thầm thì bên tai: Liệu em có còn nhớ đến thuở của đôi ta? Cả đoạn thơ với hình ảnh gió, trăng... thấm đẫm hồn, xao xiết một nỗi tình. Như câu thơ trên đã viết:
                        Em ngủ bên chồng. Thôi, cũng đừng tiếc nữa
      Đọc thơ anh mà tôi thấy nao lòng. Người ta đã ngủ với chồng rồi, anh còn nghĩ đến làm gì? Nhưng phải chăng khi lòng đã tương tư về tình? Mấy ai gỡ ra được.  Như Nguyễn Bính từng viết:
                       Gió mưa là bệnh của trời
                       Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
     Bài thơ có sức truyền cảm. Ngòi bút thi nhân hoà lẫn máu tim mà viết ra. Trong canh khuya yên tĩnh, dưới trăng sao, gió thổi và vòm trời. Cả thành phố đã chìm vào giấc ngủ đêm. Chỉ còn nhà thơ lặng lẽ, đi dưới hàng sấu xưa và con phố nhỏ:  Chúng đang thì thào tâm sự với anh! Dòng thơ cứ nhè nhẹ, dìu dịu tuôn trào ra như vậy. Lời thơ như mơ và đầy chất mỹ học. Hình tượng thơ không kiêu sa, thanh thoát, thấm đượm sự thương yêu.
     Như tiếng đàn tình gảy lên trong không gian sâu thẳm, mênh mông. Tiếng đàn ấy ru theo bước chân người thi sỹ, cùng những cánh lá sấu nhỏ đang rụng xuống…  cho những lời thơ say đắm bay ra:
                         Phố vẫn phố, hàng sấu xưa rụng lá
                         Ngỡ yên rồi? Còn lạc bước canh khuya
     Đây là hai câu thơ hay nhất chăng? không hẳn vậy. Những câu thơ khác cũng rất hay:
                         Đêm đã lạnh. Vầng trăng còn thao thức
                         Trăng bay trên trời, anh cứ thương em
     Vầng trăng kia thao thức hay chính tiếng lòng của nhà thơ đang thao thiết với trăng? Bóng nguyệt trôi mãi vào vô biên, mang hồn thi nhân theo những áng thơ đến tận bến xa vời...
     Đấy, thi ca Phạm Ngọc Thái là thế! Đọc câu thơ nào cũng thấy đầy chất sống và sâu lắng. Mỗi câu lại có một hương sắc và sự hay riêng. Tiếng thơ mỏng mảnh tựa dây đàn, như trái tim Người khẽ bật lên là rung. Nghe êm đềm và tha thiết, có chút gì đó khắc khoải ở bên trong.
     Tôi xin bình vào đoạn kết:
                         Anh lưu giữ chút tình trên trang giấy
                         Đi hết phố xa, về khắc khoải bên thềm
                         Rồi tự trách với mình sao buổi ấy
                         Lại giục em lấy chồng để đau mãi con tim?
     Vậy, lý do vì sao nhà thơ lại giục người yêu đi lấy chồng? Không ai biết. Nó hé mở ra căn nguyên của mối tình bị đứt đoạn này: Hai người cùng yêu nhau, nhưng hoàn cảnh éo le không thể lấy nhau được - Một bi kịch tình chăng? Biết không thể lấy được nhau, sao lại còn yêu để giờ phải khắc khoải nhớ thương !? Song cuộc sống vốn dĩ cũng thường hay nghịch lý như vậy mà. Không thế thì đã không có thi ca.
     Nhà thơ vì quá yêu nên tự dằn vặt với mình đó thôi! Đoạn thơ kết lại như lưu giữ một tấm tình kỷ niệm trong ảo mộng – Để những đêm lang thang trong phố, về khắc khoải bên thềm: Nhà thơ cảm xúc mà sáng tác ra những vần thơ tình chan chứa yêu đương, để lại cho nền văn học nước nhà.
     
                                                   Trần Đức                   
                     (Trích tập “PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại”, 2014)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2021 18:57:53 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 16.05.2021 18:50:23
 
 
                 MỘT BÀI THƠ TRĂNG TRỐI
 
                                                         Việt Phương
 
   
             CHẾT CŨNG CHỈ NHƯ GIẤC NGỦ

Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc
Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong!
Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng
Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến.

Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn
Tình cũng tàn. Năm tháng kiếp phôi pha
Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ
Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ

Hồn thi sĩ xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ
Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta
Chỉ chia tay có thân xác thôi mà
Tình yêu ta còn muôn đời bất tử!

Cõi thế gian: Âu cũng kiếp đoạ đầy phận số
Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân
Mãn nguyện rồi. Cần chi nữa phân vân
Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!

Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh
Dù có thời cũng sung sướng, đê mê
Nhưng tình em? Khác gì những chiếc lá bay kia
Để năm tháng dài ta hoang ru nơi bến lạnh…

"Tình và tiền"!
Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn
Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau?
Nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu!
Giọt lệ thi nhân
anh rỏ lên những trang thơ đời làm liều thuốc ngủ…

 
      Bài viết trích Tập " PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN" 2019
 
Lời bình: Trước khi từ giã cõi đời ở Gành Ráng (Qui Nhơn), thi nhân Hàn Mặc Tử đã để lại những lời trăng trối:
               Ta trút linh hồn giữa lúc đây
               Gió sầu vô hạn nuối trong cây
               Còn em sao chẳng hay chi cả
               Xin để tang anh đến vạn ngày
                                (Trút linh hồn)
     Còn Xuân Diệu thì nhắn nhủ lại đời:
              Hãy để cho tôi được giã từ
              Vẫy chào cõi thực để vào hư
              Trong hơi thở chót dâng trời đất
              Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
     Thi hào Pushkin vĩ đại - Mặt trời thi ca của nước Nga đã viết:
              Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!
              Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
              Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
              Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi
     “Chết cũng chỉ như giấc ngủ” của Phạm Ngọc Thái cũng thuộc dạng một  bài thơ trăng trối như thế!
             Hồn thi sĩ xin mang thơ gửi đời làm tri kỷ
             Chốn trần gian sẽ ngợp áng thơ ta
             Chỉ chia tay có thân xác thôi mà
             Tình yêu ta còn muôn đời bất tử!
                                        (khổ thơ ba)
     Thi nhân thản nhiên để chuẩn bị cho mình đi vào cõi vĩnh hằng. Ngay mấy câu mở đầu, ta thấy tâm trạng nhà thơ coi cái chết rất nhẹ nhàng:
            Không than vãn, lòng chẳng hề hối tiếc
            Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong!
            Cũng chỉ như giấc ngủ mơ màng
            Đời sống vậy, đủ rồi! Em yêu mến
     Mặc dù nhà thơ viết: Nắm tro tàn. Thôi thế, đã là xong! /- Nghe có vẻ như rũ bỏ? nhưng không phải. Sở dĩ lòng Người sẵn sàng ra đi thanh thoát vậy, trong khổ thơ hai đã giải thích:
             Nghiệp đã làm xong, chẳng còn chi vương vấn
             Tình cũng tàn. Năm tháng kiếp phôi pha
             Thì em ơi! Ta nằm xuống dưới mồ
             Thanh thản chết, có gì đâu phải nghĩ
    Vâng, thêm một lần nữa - Phạm Ngọc Thái đón nhận cuộc ra đi vĩnh cửu thật ung dung. Bởi, anh biết sự nghiệp thi ca cùng tên tuổi anh để lại cho đời cũng như nền văn học nước nhà, sẽ không bao giờ chết. Anh có nằm xuống dưới mồ đi vào cõi thiên thu, thì đâu phải thế là kết thúc? đâu phải “tất cả đã là xong”?  Cũng như nhà thơ Nga Pushkin đã viết:
               Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết!  
    Thi nhân coi cuộc ra đi đó chỉ như là một giấc ngủ mơ màng.  Bài thơ còn đi sâu lý giải về “đời”:
              Cõi thế gian: Âu cũng kiếp đọa đầy phận số
              Tiếc làm chi? Sống mãi chỉ mệt thân
              Mãn nguyện rồi. Cần chi nữa phân vân
              Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!
                                                   (khổ thơ thứ tư)
     Một quan niệm phật giáo. Nói về hai chữ “kinh thánh” - Trong bài “Khúc xuân tuổi bảy mươi”, tác giả cũng viết:
               Đi giữa mùa xuân,  đã thấy vĩnh cửu ở trên đầu 
               Cõi Phật rước ta về đất thánh…
     Nghĩa là, cuộc đi này của thi nhân không phải để chết? Người hóa mình vào “kinh thánh” đó thôi!
       Bài thơ tràn sang cả lĩnh vực “tình”:
                Ta đã yêu em suốt đời trong hư ảnh
                Dù có thời cũng sung sướng, đê mê
                                                   (câu 17-18) 
     Trong đời thường từ tư tưởng, tình cảm đến đời sống thực? Ai cũng quan tâm đến tiền bạc - Nhưng với người phụ nữ thời hiện đại thì, tiền bạc chỉ đạo họ về mọi phương diện: kể cả… “tình” !? Cái quan niệm “một mái nhà tranh, hai trái tim vàng”, cổ xưa lắm rồi! Thời nay, tuy cũng có nhưng rất hiếm.
      Tình thì tình, nhưng họ yêu trước hết phải là… tiền! “Tiền lấn át cả tình” - Gần như là một lý tưởng sống của người phụ nữ bây giờ. Bởi vậy,  những chàng thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, mộng mơ, chỉ… “giàu tình mà nghèo tiền” - Rất dễ bị rơi vào “bến cô liêu”! Bởi vậy nhà thơ viết:
                "Tình và tiền"!
                Tiếng nói đó làm trái tim đàn bà hưng phấn
                 Phụ nữ cả thế giới này, họ quí như nhau?
                 Nếu ít tiền, tình cũng hóa cô liêu!
     Tức là, những tình yêu chỉ xây dựng trên nền tảng theo “tiếng gọi của trái tim” như của các nhà thơ, hầu hết trước sau cũng… tan vỡ! Người mới than rằng:
                 Nhưng tình em? Khác gì những chiếc lá bay kia
                 Để năm tháng dài ta hoang ru nơi bến lạnh…
                                                               (câu 19-20)
     Thơ tình Phạm Ngọc Thái phần lớn được sáng tác từ các mối tình xưa. Thi nhân sống lại trong thơ, bằng những kí ức của tình yêu:
                 Anh trở về như Na-pô-lê-ông, đi tù ngoài hoang đảo
                 Ông dành thời gian viết hồi kí thuở tung hoành
                 Anh lấy tình xưa, xây giấc mộng thi nhân
                 Chỉ tiếc nuối tình sao ngắn ngủi.
                                              (Vĩnh biệt cuộc tình)
       Cái thời mà người chồng là một nhà thơ nghèo, vẫn được bà vợ thủy chung như vợ của Tú Xương, Nguyễn Khuyến: Xửa xưa rồi.
      Ta còn nhớ - Tú Xương từng tự sự, trong bài thơ “thương vợ” nổi tiếng của ông rằng:
                 Quanh năm buôn bán ở mom sông,
                 Nuôi đủ năm con với một chồng.
                 Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
                 Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
 
                 Một duyên hai nợ âu đành phận,
                 Năm nắng mười mưa dám quản công.
                 Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
                 Có chồng hờ hững cũng như không!
     Giờ - Xin phân tích đôi nét về quan hệ giữa đời sống thực của Phạm Ngọc Thái:  Tôi không biết nhiều đến hoàn cảnh gia đình trong mối quan hệ vợ chồng của anh? Song xét nghĩ, với một con người đam mê văn chương, nhất là thơ ca như anh - Để có được một gia đình yên ấm ở xã hội hiện đại này, quả thật là rất khó !? Nghe nói, sau này tuy vẫn sống với nhau nhưng hai người thường hay xẩy ra chuyện xích mích về chuyện tiền nong.
      Mặc dù, cũng có một giai đoạn tác giả sống rất êm ái, yên ấm với gia đình. Chẳng thế, thời kì đó anh đã sáng tác cả một tập thơ nói về vợ con! Đó là tập “Có một khoảng trời” xuất bản năm 1990, sau một chuyến công tác ở Đức về. Có những bài thơ rất hay nói về người vợ trẻ của mình, như bài “Tiếng hát đời thường”:
                  Trong một phố nghèo có người vợ trẻ                                               
                  Vẫn đón con đi, về... như thường lệ                                                
                  Vóc em thanh cũng thể mùa xuân                                               
                  Đôi mắt em: đôi mắt ấy màu đen. 
     Hay là:
                   Miền đã theo tôi vào cuộc Trường Sơn
                   Hành quân rừng già, võng treo sườn gió...
                   Ai biết chiều nay người vợ trẻ
                   Đứng mong chồng bên đứa con thơ
                   Giọt lệ cháy xót lòng mang sắc xanh thu!
     Rồi bài “Có một khoảng trời”:
                   Cái khoảng trời khi anh và em đã cách xa
                   (xa thật đấy mà cũng gần thật đấy)
                   Trong đau đớn anh hoá bờ cát cháy
                   Thổi về phương em giữa chiều gió nổi
 
                   Hạt vô tư còn lại… những tàn tro!
     Tình cảm của nhà thơ với gia đình, quê hương - đặc biệt với người vợ, rất đẹp! Anh không ngớt lời ca ngợi qua một số bài khác nữa: Nỗi trăn trở người đi tìm vàng, Bài ca xứ sở, Trăng quê, Mùa tuyết quê người…
     Song cũng phải nói: Giai đoạn này - Tác giả đang công tác ở ngành ngoại thương, lại đi nước ngoài? Cuộc sống chắc cũng khá! Chưa bị mối quan hệ về tiền bạc chi phối nhiều.
     Mảng sáng tác duy nhất anh nói về người vợ, chỉ ở mỗi tập thơ “có một khoảng trời” đầu tay ấy! Còn cả một khối lượng hàng trăm bài thơ tình viết sau này, không thấy có bài thơ nào Phạm Ngọc Thái nói về người vợ của mình nữa? “Em” trong các bài thơ tình của anh, toàn là em của cái thuở mộng mơ xưa… hoặc cảm xúc với một người nào đó - Không phải là vợ.
      Bởi vậy, thơ tình Phạm Ngọc Thái hoàn toàn xuất phát từ sự rung động trái tim.   Ngoài phạm trù tiền…
     “Chết cũng chỉ như giấc ngủ” không chỉ là bài thơ tự sự bản thân? Nó còn mang cả ý nghĩa thời đại! Trong mối quan hệ giữa tiền bạc với đời sống con người… mà phản ánh nhân sinh quan tác giả.
     Bài thơ ôm trùm tính hiện thực xã hội, súc tích và sâu sắc. Không ít chỗ khúc chiết và hay. Đột biến có câu thơ thật xuất sắc: 
                   Ta nằm xuống hoá mình vào “kinh thánh”!
     Huyền bí và hiển linh.
 
                                                 Việt Phương
                     (trích tập “PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN” 2019)
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 16.05.2021 19:02:20 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 17.05.2021 18:01:26
 
                   CHÙM THƠ CHỌN 8 PNT
 
 

                ĐÊM THIẾU NỮ

Tiếng ếch chùa động vỡ “đêm thiếu nữ“                                                          
Mây từng đàn trôi nổi phận thiên nhiên
Ta khỏa lòng ta đằm sương gió
Sau chuyện tiền nong với áo cơm.
 
Ôi, thân thiết chặng đời gió bụi                                                          
Những tháng năm đá, sỏi... đến cùng em
Em đã nuôi ta bằng nhị hoa, phấn dại
Một chặng đời sôi nổi giống bướm ong
 
Làn tóc ướt, môi thơm chùm ớt ngọt                                                     
Nhớ thương nhau nhưng chẳng thể đi tìm
Mặt nguyệt đêm này nhòe sương bạc
Anh một mình ngồi hát ru em
 
 
       MÙA THU VỚI NÀNG THƠ

Anh nằm xuống dưới chân em thiếp ngủ
Ngọn cỏ thầm hứng gió mùa thu
Vái ma quỉ, nàng thơ thần diệu quá !
Ta đã yêu em suốt cuộc đời mơ...
 
Kia, lá vàng rơi xuống đầu ta đã thẫm
Và mặt trăng và bão tố tơi bời
Ta là bóng cả bình minh cùng bóng tối
Sống giữa đời hồn vẫn chơi vơi

Em tai quái mà dị phàm quá đỗi
Giết chồng như giết đười ươi
Chôn xác tình nhân như rận rệp bấu trên người
 
Các nhà thơ đừng mạo muội
Biết riêng ai, sẽ đến lượt mỗi người ?

Anh là chàng thi sĩ ru em
Khi ôm ấp, khi vui cùng trăng gió
Mùa thu ơi, lòng ta da diết quá !
Văng vẳng bên chùa tiếng chuông ngân...
 

 
                    NGƯỜI ĐÀN BÀ
     CHỨA LINH HỒN THÁNH LINH
 
Người đàn bà, anh mãi mãi không quên
Nàng đã lẫn vào trong cát bụi
Sống nổi trôi hay đang những ngày cảm khoái
Có bồi hồi nhớ lại quãng tình qua ?

Anh đã yêu từ ánh mắt như sao sa
Cả vòm ngực tiên trắng mềm, nóng hổi
Em mở rộng động trinh, để anh vào tận sâu trong hứng khởi
Lúc sướng vui em đã uốn mình...

Ôi, tạo hoá ! Sinh ra cái của em, để gieo hoa cho thế thái nhân tình
Vĩ đại và vô biên
Anh trải thơ lên đời, viết về tình yêu - cuộc sống…
Trái tim em chứa linh hồn thánh linh

Trấn át ác quỉ bạo tàn !
Anh khắc hình hài em trong vũ trụ
Biểu tượng lớn lao của chúng sinh
Sự tồn tại muôn đời. Vần xoay thế giới.
Cả chiến tranh và trong cả hoà bình

        CÂY THẦM TIẾC BÓNG

Nàng đi mãi mà không trở lại
Gió bên đường kéo liễu, hát trong mưa
Và mặt nước bi bô lời than thở
Chiều buông rèm, tàn tạ nắng buồn mơ

Anh ngắm liễu bên hồ, càng nhớ bóng
Ai ru mình trong trăng sáng, nép vào anh
Làn da trắng, vòm ngực nàng hưng phấn
Tan tành rồi ! Ôi, mộng thuở ái ân...

Người đàn bà ra đi, không trở lại
Để cây thầm tiếc bóng hoá bơ vơ
Và gió nữa cũng giông cuồng, rồ dại
Hồn thi nhân tan tác giữa hư vô

Đôi mắt đẹp nàng dịu dàng đong trời biếc
Thân hoa thơm mà lại ủ bão dông
Anh tê dại cõi hồn hoang biền biệt
Bao sầu tư vương vấn các nẻo đường

Người đàn bà ra đi không trở lại
Bãi cuộc đời cát bụi, gió mưa
Hoa sẽ úa, nhị sẽ tàn và lụi
Một đời trôi theo năm tháng xô bồ...
 

 
 

          CHO EM GỌI TIẾNG “CHỒNG” LẦN CUỐI  
 
-  “Cho em gọi tiếng chồng lần cuối”…                                                           
Nghe em nói lòng anh buốt nhói
Giọng nói dịu hiền, giọng nói yêu thương
Người thôn nữ xa phương 
 
Anh đã yêu em bằng cả trái tim
Những muốn đưa em tới chân trời vĩnh tuyệt !
Vẫn biết đời em có nhiều ngang khuất
Chưa thể nào gột rửa hết để theo anh.
 
Anh gọi em VỢ ÚT thân thương
Em gọi anh là CHỒNG trìu mến
Tình ta dẫu bao la như sóng biển
Vẫn êm đềm sâu thẳm đáy đại dương
 
Tối tối về anh ân ái bên em
Em vẫn chiều chồng với bao niềm cảm xúc
Và cùng nhau những tháng ngày hạnh phúc
Thế giới tưởng chừng chỉ có hai ta
 
Thôi, về đây em ! Anh không thể chia xa
Sẽ bất chấp mọi điều ngang trái
Để em gọi tiếng “chồng” mãi mãi
Anh ngọt ngào trong tiếng “vợ” thương thương
 
Ta lại ôm em vào lòng
- Người thôn nữ quê hương!   
                                                                                                
              ĐÊM THU TRẮNG

Đêm thu trắng… người đi trong sương trắng
Quán bên hồ em gái đến loạn trăng

Ánh mắt em ươm chùm hoa cúc thơm
Đôi môi ướp các nụ hôn, còn thắm đỏ
Những cám dỗ vỡ oà ra thân thể
Để cả gió xô làn mây ngổn ngang

Dưới làn da mịn mát tơ giăng
Những nơ-ron tình yêu, dòng điện cháy
Và như thể chúng rùng rùng chuyển động
Mang cả đàn bướm cái bay ra…

Lậy trời đất ! Cám ơn tạo hoá !
Giọt ái tình không đặt chỗ nghiêm trang
Người đã sinh ra những lòng tham
Giữa thiên nhiên trinh bạch.

Đêm thu không lá vàng
Quán bên hồ anh muốn cấu trái cấm em...
 



 
               CHIỀU PHỐ GIÓ VÀ
       MỐI TÌNH LÔNG NGỖNG TRẮNG


Một chiều nắng đỏ
Gió đi dưới các hàng cây
Biết bao nàng thiếu nữ qua đây
Giờ này người con gái xưa, có về trên phố cũ ?

Chiều phố gió, trái tim ta náo động !
Ôi hôn hoàng, run khe khẽ hồn ta
Những cành lá đánh đu lẩy bẩy
Trời đã xin cưới đâu mà nắng vội lên xe hoa ?

Chiều phố gió như thể rừng thu động
Lá thì bay, còn mây đám thì tan
Liễu xác xơ như buổi tối tân hôn
Níu giữ cảnh hoang tàn diễm tuyệt

Em chìm đắm nẻo nào cuộc sống
Để trái tim anh vỡ vụn, biến tan
Những mảnh tình bay tứ tung, theo dòng-lông-ngỗng-trắng
Nàng Mỵ Châu năm xưa đã rắc hộ trên đường

Tình tan vỡ anh cạn ly cuộc sống!
Gạn cả sướng vui lẫn với khổ đau
Con tim hát tháng năm luyện thành trai ngọc
Sáng long lanh trong biển sóng gầm gào.

Chiều phố gió tan dần, bóng xế
Các nàng thiếu nữ cũng đi xa
Trong số đó, liệu có ai đã mang theo lông-ngỗng-trắng
Để cho tình được hát ngọc chia ly?
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.06.2021 13:44:26 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 17.05.2021 21:55:42
 
 
            NHỚ VỀ CÔ GIÁO CŨ
                                Kính tặng cô giáo chủ nhiệm
                                      Đinh Thị Kim Thanh

Xóm chiến tranh. Thời thơ sơ tán học
Lớp cũng là một mái nhà gianh
Sân trăng sáng như lòng cô đằm thắm
Soi vào em bao nỗi ân tình

Nhớ thuở ấy em còn trẻ quá!
Tuổi hồn nhiên qua trang vở học trò
Như người mẹ hiền từ cô dìu dắt
Ở cái làng Cầu Ấu (*) đã xa xưa

Sông bến đưa đò, cô chèo giữa nắng mưa
Lớp lớp quá giang, chúng em đi biền biệt
Có những phút quay lặng nhìn, lòng thổn thức
Kỷ niệm về như bày sáo lang thang

Gió vẫn đang reo trên đồi thông Mỏ Thổ (*)
Sông Máng (*) trong xanh, nước chảy qua cầu
Năm mươi năm trôi… tóc cô đã bạc
Tóc em giờ bóng hạc cũng vờn nhau

Biết tin cô, thôi không còn lên lớp nữa
Đánh tan giặc về, em làm một nhà thơ
Sương trên mái tóc cô, rơi xuống đầu em hoá lệ
Và đời người, cô ạ! Ngỡ cơn mơ...
 
                                        2016

(*) Những địa danh ở Bắc Giang - Thời còn chiến tranh phá hoại bởi không quân Mỹ, chúng tôi đã đến sơ tán để học.
 
 
 
 
           VIẾT CHO BUỔI HOÀNG HÔN                      
                                           Tặng Huyền Băng
 
Đừng buồn nhé, đời người tuy khoảnh khắc
Vụt như câu bay bóng lạc giữa trời
Em có nghe tiếng bên bờ biển ấy
Trong mãi hồn ta thăm thẳm trùng khơi

Em nhìn lên hoàng hôn với một làn mây trắng
Dưới bãi bờ trai gái vẫn sinh sôi
Và khát vọng đâu đã phải là tắt ngấm?
Ta lại ru ta trong biển lớn cuộc đời!

Buổi hoàng hôn em ơi, rất đẹp!
Có nắng vàng rạng rỡ ánh pha lê
Có thế giới, vũ trụ quay quanh mộng
Dưới những hàng cây xanh mình lặng lẽ đi...

Cánh nhạn đã về dẫu đà xa vắng
Mùa xuân kia mây cũng nhởn nhơ bay
Em không phải gối đầu bên rêu, mà là lên hoa thắm
Của buổi hoàng hôn hương nhụy ngọt ngào say.

Ôi hoàng hôn, hoàng hôn, hồn ta làm lốc xoáy
Tình ru trong nhung êm, như dòng suối dạt dào
Ta sẽ nói với nhau những lời nhỏ bé
Còn cuộc đời nhờ lịch sử ta trao!

Em có nghe, có nghe, tiếng đôi bờ vang động
Anh thầm thì gọi vọng giữa trăng sao 

 
 
          NHỚ EM ĐÊM NOEL

Trái tim anh mưa tạnh, sóng lặng rồi!
Dẫu nhớ nhung lòng chỉ hơi man mác
Em ngủ bên chồng, chắc cũng đã yên bề ngon giấc?
Tình chúng mình chấm hết, thế là xong

Những đêm yêu thành cổ tích, phải không em?
Ôi! Những đêm không chiếu, không màn bên trăng gió
Đời thiếu nữ em trôi hoá câu vọng cổ
Anh cũng chỉ ru anh trong bóng nhạt khuya về

Nhớ ngày nào anh vẫn đón em đi
Tối phố, trời sao... tình yêu tuổi trẻ!
Ta trút cho nhau cả trời lẫn bể
Tháng năm qua tất cả ngỡ chiêm bao....

Đêm noel đó em! Trai gái vẫn rủ nhau
Chỉ có hai ta hai trời cách biệt  
        
 
 
    VẦNG TRĂNG CHE KHUẤT

Gió đưa mây bay qua vầng trăng
Che khuất khoảng trời sáng tỏ
Đời cũng thế, biết bao điều nhảm nhí
Thường lấp đi mặt nguyệt đêm rằm.

Qua song cửa bóng đa lồng mái phủ
Ngôi chùa con bên phố cầu kinh
Ôi, vầng trăng như khuôn mặt nữ sinh
Cứ mơn trớn xoè tấm thân ngà ngọc.

Đêm nay nữa, anh giật mình thức giấc
Chẳng hững hờ nhưng biết làm sao?
Chuyện áo cơm đành đổi cả trăng sao
Cứ lỗi hẹn tháng năm dài vẫn bỏ.

Gió vẫn đưa mây qua vầng trăng tỏ
Thảo đôi dòng cho đỡ tiếc, nguyệt ơi!
Ngày mai rồi sẽ đến một ngày thôi
Mái đầu anh cũng trắng như trăng vậy.

Và có thể dưới nấm mồ đầy cỏ dại
Mới thanh nhàn hưởng trọn ánh trăng soi.
 
       TRĂNG DẠT TRONG MÂY

Trăng dạt trong mây
Em trôi vào cuộc sống
Bỏ lại những bến bờ khát vọng lùi xa
Và những đêm thiếu nữ bên hồ

Anh không hỏi gió có buồn
Lá có buồn
Một chiều nào đó có hư không
Nỗi buồn sâu xa cuộc sống

Em bỏ lại trong lòng anh khoảng trống
Như thi ca! Tan vỡ mặt trời!
Trông theo em bờ-bãi-con-người
Ai sẽ nhặt lá rơi như những chiều thu ấy?

Biển vẫn nuối ngàn năm quanh Trống Mái
Sắc ti-gôn ai từng hát thay ta
Em đi, biết bao giờ trở lại?
Gió hồn anh thổi mãi tháng ngày qua

Trăng đêm nay lung lay trên thành phố
Có một người đã nhớ người xưa
Có một chàng thi sĩ ngắm bơ vơ
Chuyện lạ cõi đời: đàn bà xưa nay là bất tử!

 
 
   HAI KẺ ĐỜI QUẤN QUÍT
 
không có em, anh vẫn yêu tha thiết
Chỉ trời xanh là biết mối tình ta
Vì đường đời đã phải chia xa
Dẫu trái tim hai đứa cùng đau nhói
 
Trời Tây Hồ nắng vờn trong gió mới
Như anh-em ngày ấy, quấn bên nhau
Bóng trúc xinh soi dòng nước xanh màu
Cứ tưởng sẽ đời đời và mãn kiếp
 
Em vật vã đêm ngày, anh vẫn biết
Những thương em, chỉ biết ngóng trời xa
Ca lên em ! Cõi trần có phong ba
Tình yêu sẽ dẫn ta vào bất tử !
 
Em xinh đẹp, đất trời còn quyến rũ
Gái má hồng, tạo hóa phải ghen
Anh bôn ba nửa trái đất, cũng yếu mềm
Nặng lời thề với em ghi tấc dạ
 
Miền sông nước: Ôi, mênh mang trắng xóa
Có em tôi ở đó, đứng chờ mong
Ta chia tay bởi duyên phận không thành
Anh ra đi ngày đêm thường trăn trở
 
Chưa kịp đến đón em làm vợ
Đã bạc đầu. Nuốt dòng lệ em đau...
 
Một mai kia... nơi thế giới không màu...
Anh sẽ đợi em về, nằm bên cạnh
Hai ngôi mộ trong hương tàn, khói lạnh
Của hai kẻ đời quấn quít, gió mây bay
 
 
 
  NGƯỜI  ĐÀN BÀ CỦA MÙA THU

Thu đã chết theo tháng năm tàn úa
Qua mỗi mùa lá rụng, em ơi!
Anh đi giữa những mùa xa vắng ấy
Tình  em bay trong ảo giác tơi bời

Cuộc sống trôi đi những ngày hoang lạnh
Như lá vàng rơi trên mồ lão Giăng Van Giăng     
Và anh sống trên đời côi cút
Lang thang bờ bãi của bóng đêm

Lại nhớ đến bao nhiêu mùa trước
Người đàn bà từng thao thức bên anh
Thu trong em. Ôi! Mùa thu rạo rực
Tình em như biển thẳm trời xanh

Người đàn bà! Ôi, mùa thu mùa thu
Nàng có đôi mắt mơ hiền đẹp
Vòm ngực nàng như một bầu trái ngọt
Những đêm thâu, nghe thổn thức bên hồ

Anh viết về mùa thu, mà câu thơ lại không lối xô bồ
Dẫu trái tim còn tràn đầy cảm xúc
Em có nghe! Tiếng của hàng cây đương nhắc
Trong hư vô hun hút quyện vào đêm…
 
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2021 11:43:50 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 18.05.2021 11:47:44
 
 
                         TIỂU THUYẾT CHIẾN TRANH CỦA MỘT NHÀ VĂN CHIẾN BINH
 
                                                    Trần Đức
                        Nguyên CB Viện Ngôn ngữ & Văn hóa dân gian
 
 
       Tác giả TRẦN ĐỨC

        Đó chính là Nhà văn - Nhà thơ Phạm Ngọc Thái với Bộ tiểu thuyết (2 tập): CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU, Nxb Hồng Đức 2020 .
     Mở đầu tác phẩm, ta đã thấy dòng chữ: "Truyện được viết dựa theo cuộc đời trận mạc của tác giả, từng trải qua cuộc chiến tranh trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ". Tổng cộng cả hai tập dầy 468 trang sách, trữ lượng thời đại chứa đầy ắp trong tác phẩm.
     Nguyễn Thị Xuân - GV Trường THPT Ba Đình Hà Nội, với bài viết: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" - Bình luận về tiểu thuyết:
    " Tiểu thuyết không chỉ mô tả những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu Thân 1968 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam, đến tận ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
    Đồng thời, phục lại cả cuộc chiến tranh bằng không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ cho B52 mang bom oanh tạc vào tận thủ đô, hòng hủy diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá? Bị cả loài người lên án! ".
      Cô giáo kết luận: " Bộ tiểu thuyết có tính lịch sử xã hội sâu sắc, sinh động và điển hình thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ xâm lược ở Việt Nam ".
     Trong bài viết này, tôi xin tóm lược diễn biến những sự kiện về đất nước - con người của cuộc chiến trạnh, được nhà văn miêu tả qua tác phẩm: 
     ... Nhân vật trung tâm của truyện là một đôi thanh niên nam nữ: Nguyễn Hoàng và Thu, cô bạn gái cùng học năm cuối cấp với anh ở trường phổ thông.  Mùa thu 1966, sau kỳ thi tốt nghiệp: Hoàng được gọi Đại học Bách khoa - Thu vào sư phạm. Họ cũng chính thức đến với nhau bằng tình yêu từ đấy! Khi đó, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền bắc đã rất ác liệt. Máy bay Mỹ nhiều lần ném bom, bắn phá xuống các vùng ven đô. Cả thành phố bước sang giai đoạn báo động. Các cơ quan, trường học cùng dân tình trong nội thành đều gấp gáp sơ tán về các vùng nông thôn và miền núi. 
     Hoàng sinh ra trong một gia đình thị dân thành phố. Nhà có ba anh em trai: Hoàng là con thứ. Mẹ của ba anh em mất sớm. Ông Thịnh, người cha của ba anh em lấy thêm một bà vợ lẽ. Anh trai lớn của Hoàng đã có vợ con và ra ở riêng, theo nghề cha làm thợ cắt tóc. Hoàng với cậu em út ở cùng cha và dì ghẻ. Gia đình sống trong một ngôi nhà tại ngõ Cống Trắng, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Không biết từ bao giờ, ông Thịnh đã chiếm được một miếng đất ngay đầu ngõ gần nhà, sát với mặt phố để mở một cửa hiệu cắt tóc nhỏ. Bà dì ghẻ thì làm cái nghề mua đi, bán lại: Đêm đêm ra ga Hàng Cỏ đón tàu từ Đồng Đăng, mạn phía bắc giáp Trung Quốc về để mua hàng, rồi mang bán lại cho những người buôn bán nhỏ ở thành phố kiếm lãi.
     Gia đình Thu, nhà trên phố Hàng Bông. Ba và mẹ cô đều làm nhà giáo. Bà Giáo (thường gọi như vậy) đã nghỉ hưu - Ông Giáo, hiện vẫn đang công tác trên Bộ Giáo dục thành phố. Thu có một anh trai đang chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Người chị dâu với đứa cháu gái nhỏ, ở với ông bà Giáo và Thu. 
     Tiểu thuyết khắc họa theo những năm tháng của cuộc đời đôi trai gái ấy: Qua đó diễn tả lên toàn cảnh xã hội, trong những năm tháng chiến tranh đánh Mỹ của cả hai miền Nam - Bắc. 
     Nguyễn Hoàng, nhân vật chính của tiểu thuyết là một sinh viên, trí thức tiên tiến. Anh đã cùng với lớp thanh niên thủ đô yêu nước, tình nguyện rời bỏ trường đại học, xung phong vào quân ngũ lên đường đi chiến đấu - Thu theo học đại học sư phạm. Những năm tháng bởi cuộc chiến tranh phá hoại, trường của cô phải sơ tán lên mãi tận vùng rừng núi Việt Bắc để học.  
     1968. Ở miền Nam, đồng loạt diễn ra cuộc tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân trên toàn chiến trường. Quân giải phóng bất ngờ tiến công vào rộng khắp 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Như các nhà bình luận quốc tế lúc ấy đã viết: "... Một cuộc Tổng công kích của mặt trận giải phóng miền Nam, làm rung chuyển cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc".
    Khi đó đơn vị của trung sĩ Nguyễn Hoàng - Hoàng đã nhập ngũ và là tiểu đội trưởng một trung đội súng máy đại liên, thuộc Trung đoàn 209, Sư 312... đang diễn tập trên rừng núi Hòa Bình, được lệnh hành quân bằng ô tô, đội mũ sắt (được gọi là trung đoàn mũ sắt), cấp tốc tiến thẳng vào chiến trường Tây Nguyên. 
     Đến đây tiểu thuyết bắt đầu rẽ ra làm hai hướng: Một hướng theo bước chân Nguyễn Hoàng - Tác giả phục lại tình hình chiến sự trên chiến trường miền Nam, tới ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1775 - Hướng kia theo cuộc đời Thu, khắc họa lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra đất Bắc, ngày càng ác liệt. Kết thúc bằng trận ném bom hủy diệt 12 ngày đêm của Mỹ tháng 12.1972, hòng biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đồng, đồ đá.
      Cách cấu trúc của bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" viết theo kiểu từng hồi, từng chương: Cả hai tập gồm 13 chương và 45 đề mục. Các chương xen kẽ nhau, diễn tả tuần tự thời gian chiến sự cả hai miền Nam Bắc. Trên đầu mỗi chương đều có tên đề giới thiệu... rất giống với phong dáng truyện  "Những người khốn khổ" hay " Nhà thờ Đức Bà Paris" của văn hào Pháp Victor Hugo - Thí dụ: Chương I "vào đời" - Chương II "Chiến tranh phá hoại và chia ly"........... cứ thế tới Chương XIII "Trận chiến cuối cùng"... và hết.
      Nhưng cách tư duy và ngôn ngữ diễn tả thì lại ảnh hưởng rất nhiều các tác phẩm văn học Âu châu, như "Chiến tranh và hòa bình" hay "Anna Karenina" của văn hào Nga L. Tônxtôi qua bản dịch ra tiếng Việt - Tôi từng trao đổi với tác giả, anh nói: Những năm tháng trước, anh thường đọc nhiều tác phẩm của nước ngoài (qua bản dịch) hơn ở trong nước, nhất là đối với các tác giả lớn như: L. Tônxôi, Pushkin, Victor Hugo, Balzac... cho nên cách thức tư duy văn xuôi phạm Ngọc Thái ảnh hưởng nhiều của nền văn học Âu châu cũng là điều dễ hiểu.
     Nói rộng sang thi ca - Ở trong nước, chủ yếu Phạm Ngọc Thái ảnh hưởng kiểu tư duy thơ của Hàn Mặc Tử qua các bài thơ, như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín... và tính triết lý trong thơ của Chế Lan Viên -   không chịu ảnh hưởng một chút nào của thơ Xuân Diệu hay Huy Cận.
      Còn đối với các dòng thi ca ở nước ngoài - Anh chịu ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng Âu Châu đầu thế kỷ XX: Điển hình là nhà thơ tượng trưng bậc thầy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) với thuyết "tương ứng cảm quan".  Về chất trữ tình trong thi ca thì anh lại ảnh hưởng của nhà thơ Nga vĩ đại Pushkin qua bản dịch Thúy toàn - Chính loại ngôn ngữ thi ca này chi phối... kể cả khi anh viết kịch hay tiểu thuyết - Bởi vậy, bạn bè trong giới văn chương thường nói vui: Anh viết kịch như thơ -  Thơ thì lại rất nhiều tính kịch, là vậy. 
     Bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái cũng được phối cảnh như các màn diễn của một vở kịch dài hay là một bộ phim nhiều tập. Cho nên tôi cho rằng: Nếu một tác gia hay đạo diễn phim nào, làm phim về tiểu thuyết Phạm Ngọc Thái? Nếu làm giỏi, rất dễ có một bộ phim tâm lý chiến tranh sâu sắc, tuyệt vời.
     Xin phân tích vào nội dung - Như cái tên đề "chiến tranh và tình yêu": Đó là hai phạm trù xã hội sâu sắc, được tác giả diễn tả qua tiểu thuyết. Tạo thành hai dòng chảy quyện vào nhau, xuyên suốt tác phẩm. Bình luận một bộ tiểu thuyết dài hai tập mà chỉ trong bài tiểu luận ngắn, thực không dễ. Tôi xin chia làm ba phần để phân tích:
     1/.  Chiến trường miền Nam
     2/.  Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc 
     3/.  Tình yêu.


 
 * PHẦN I - Tình hính chiến sự ngoài tiền tuyến được diễn tả theo bước chân Nguyễn Hoàng lên đường vào mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ: Bắt đầu từ năm 1968, sau cuộc tổng công kích mùa xuân Mậu Thân của quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam. Khắc họa vào 7 chương, trong tổng số 13 chương của tác phẩm. Đó là các chương: V - VI - VII - VIII - IX.... XII - XIII và kết thúc. Trên đầu mỗi chương đều có tiêu đề:
 
                                   TẬP MỘT
     Bốn chương đầu tiên diễn giải về gia đình, tình yêu của đôi trai gái tại thủ đô Hà Nội. Tổng quát tình hình chiến sự, dân tình, không khí xã hội trong chiến tranh, cho đến khi đôi trẻ chia ly: Anh ra ngoài tiền tuyến giết giặc, em ở lại hậu phương...  
-  Chương V:    Tổng quát chiến sự xuân Mậu Thân 1968
-  Chương VI:   Trận đánh đầu tiên (nguyễn Hoàng vào chiến trường Tây Nguyên)
-  Chương VII:  Người con gái bản ra chiến trường  
-  Chương VIII: Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu ( phần 1 )  
 

     Nhà văn Phạm Ngọc Thái thời còn chiến tranh

                                    TẬP HAI
-  ....      Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu ( phần 2 )
-  Chương IX:   Cái chết của người con gái bản
.....             
-  Chương XII:  Chiến trường Tây Nguyên những năm cuối
-  Chương XIII: Trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh
     Tóm lược về bẩy chương: Tình hình chiến sự của chiến trường miền Nam nói chung, qua những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây Nguyên, Nam Bộ - Bắt đầu từ trận đầu tiên trung sĩ Hoàng tham dự, đó là trận đánh của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209, Sư 312 (vừa hành quân từ Bắc vào)... với TIểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ, tại dãy Chư Tan Kra thuộc vùng núi Kon Tum. Nói về chiến tích của trận đánh này, theo cuốn "Lịch sử Trung đoàn 209...", Nxb QĐND 2004 viết:
    " Trong trận tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204 lính Mỹ đã bị tiêu diệt và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam Bộ... ".
     Một trận đánh đẫm máu. Quân giải phóng tổn thất rất nặng nề. Chính Hoàng đã bị thương, phải rời đơn vị về phẫu điều trị vết thương trong trận đó. VÌ trận chiến không dứt điểm - Chính mắt anh nhin thấy bao đồng chí mình bị thương và hy sinh nằm phơi trên đỉnh đồi... tiểu đoàn phải rút quân không lấy được xác đồng đội ra và...  bọn Mỹ đã cho xe ủi đẩy tất cả xác của các chiến sỹ xuống một cái hố lớn, tẩm xăng vào đốt. Sau đó trung đoàn 209 tiếp tục hành quân xuống mặt trận dưới đồng bằng - Hoàng đến viện trị thương. Vết thương lành, anh được thuyên chuyển vào một trung đoàn pháo lớn của quân giải phóng ở Tây Nguyên. 
 

                         Chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ

     Cứ thế cùng với bước chân Nguyễn Hoàng, tiểu thuyết khắc họa những trận đánh lớn điển hình ở Tây Nguyên, từ những năm của thập kỷ 70 đến tận ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng - Như trận đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đầu năm 1972; Chiến thắng lớn ở Đắc Tô - Tân Cảnh trong chiến dịch xuân hè 1972; Sau đó quân giải phóng tiến đánh vào thị xã Kon Tum thì bị thất bại (lần đầu) phải rút bỏ về củng cố quân lực tại căn cứ Đắc Tô - Tân Cảnh, vùng đã được giải phóng.
     Ngày 27.1.1973 hiệp định ngừng bắn ở Việt Nam tại Pa Ri được kí kết. 
     Ngày 29.3.1973, người lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi miền Nam Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam. Từ nay chỉ còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu) đơn độc chống lại liên quân: Quân đội nhân dân Việt Nam từ Bắc tràn vào và Quân giải phóng miền Nam - Song thực chất Chính quyền Sài Gòn vẫn nhận được sự viện trợ của Mỹ (tuy so với trước thì rất ít)? chính quyền Thiệu đã ngang nhiên phá bỏ hiệp định ngừng bắn, huy động toàn bộ quân lực tiến hành chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ" để bình định, lấn chiếm lại một số vùng đã được cộng sản giải phóng - Nội chiến tiếp tục nổ ra.
      Tháng 9.1973 - Nguyễn Hoàng được đề bạt lên cấp đại úy, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn hỏa lực gồm pháo hỏa tiễn DKB, cối 82mm, rốc két B41 và một đại đội pháo cao xạ phòng không với hai loại pháo 37ly - 14ly5 - Nhận lệnh từ Bộ tư lệnh Mặt Trận B3 chi viện cho Trung đoàn bộ binh 48 Sư 320, mở cuộc tiến công vào căn cứ Chư Nghé, phía tây Pleiku. Trận chiến đó quân giải phóng đã thắng lợi ròn rã.
      Khi đó Hoàng vẫn không hề biết được tin rằng: Thu, người yêu của anh đã bị chết khi đi làm nhiệm vụ cứu hộ dân bị nạn trong đợt Mỹ ném bom B52 rải thảm xuống 12 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội vào tháng 12.1972 ( vì anh không nhận được thư).
     Tháng 3.1975, trung đoàn trưởng Trung đoàn pháo 37ly Nguyễn Hoàng nhận lệnh chi viện cho các sư đoàn bộ binh chủ lực của mặt trận B3, mở cuộc tổng tiến công vào các thị xã lớn: Buôn Ma Thuột, Kon Tum và Pleiku...  giải phóng hoàn toàn vùng Tây Nguyên. Thừa thắng, các sư đoàn chủ lực của cộng sản ồ ạt tấn công, đánh chiếm Quảng Trị ngày 19.3.1975 - 26.3 giải phóng thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên - 24.3 đánh chiếm hàng loạt các vùng khác, như Thị xã Tân Kỳ  - Quảng Ngãi 25.3 - Chu Lai 26.3 - Ngày 30.3.1975 thành phố Đà Nẵng cũng hoàn toàn lọt vào vòng kiểm soát của quân giải phóng. Năm sư đoàn bộ binh thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa cùng các lực lượng không quân, hải quân, địa phương quân... tổng cộng gần 300 ngàn quân VNCH bị tan rã. 16 tỉnh ở miền Nam, 5 thành phố lớn của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu - tức 1/3 lãnh thổ, trong vòng 15 ngày đã lọt vào tay quân giải phóng.
     Lúc tình hinh chiến trường miền Nam đang diễn ra rất căng thẳng, gấp rút giải phóng toàn bộ miền Nam - Hoàng nhận được tin Thu chết trong một lá thư của Lan gửi vào - cô bạn gái học cùng một lớp với hai người... kèm với lá thư của Thu viết cho anh đêm nô-en 1972 chưa kịp gửi. Hoàng nghe tin Lan báo về cái chết của Thu như sét đánh ngang tai, nước mắt anh chỉ muốn trào ra. Toàn bộ con người anh run rẩy. Nhưng lệnh chuẩn bị vào cuộc chiến quyết liệt - Hoàng phải nén lòng mình, vội nhét cả hai lá thư của Lan và người yêu vào túi áo ngực, rồi tiếp tục chỉ huy bộ đội tiến vào trận đánh.
    Ở miền Bắc: Bộ chính trị của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử: Tiến đánh vào đầu não của chính quyền VNCH ở Sài Gòn, ngay trong mùa xuân 1975. Sớm hơn dự định mà đáng lẽ theo kế hoạch, phải để tới năm 1976 mới thực hiện.
     Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và khắp trên chiến trường miền Nam, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thế tuyệt vọng. Bộ máy chính quyền của tổng thống Thiệu tan rã. Ngày 21.4.1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức, trao quyền lại cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau đó nhượng lại cho Dương Văn Minh để có thể thương lượng với cộng sản Bắc Việt - Nhưng cuối cùng thì Dương Văn Minh thay mặt chính phủ VNCH ở Sài Gòn, đã phải đầu hàng vô điều kiện.
     Chiều 25.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng với gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam chạy sang Đài Loan - với sự hộ tống của trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ Martin.
     Trở lại với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào tháng 4.1975 ở trong tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu", Phạm Ngọc Thái đã phục lại: Trung tá Nguyễn Hoàng, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo hỗn hợp ( cả pháo cao xạ đánh trên không và pháo mặt đất), trực thuộc Binh đoàn Tây Nguyên - Hoàng được phong vượt cấp sau chiến thắng ở mặt trận Tây Nguyên - Trung đoàn pháo của anh được Bộ tư lệnh binh đoàn điều động, dùng hỏa lực chi viện cho sư đoàn 320 đánh vào Đồng Dù - Đồng Dù là một căn cứ kiên cố, tuyến phòng thủ phía Tây Bắc Sài Gòn của Chính quyền VNCH. 
     6 giờ 30 phút ngày 29.4.1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Ở đây, đã diễn ra trận chiến rất ác liệt. Thương vong và tử chiến cả hai bên đều rất nặng nề. Máu các chiến sĩ của Sư đoàn 320 cũng đã nhuộm đỏ mặt đồi. Mệnh lệnh của đồng chí Sư đoàn trưởng 320, chỉ thị xuống các trung đoàn: Bằng mọi giá dù phải hy sinh bao nhiêu, trong vòng 6 tiếng phải tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, để các binh đoàn chủ lực của mặt trận tiến đánh vào trung tâm Sài Gòn. 
     Đúng 11 giờ ngày 29.4.1975, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Sư đoàn 320 tung bay trên nóc sở chỉ huy của quân VNCH. Mở tung cánh cửa hướng tây bắc, để binh đoàn Tây Nguyên tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn. Chỉ trong vòng 5 tiếng đồng hồ, Sư 320 của quân giải phóng đã đập tan toàn bộ Sư 25 của chính quyền Thiệu đóng trên căn cứ.      
       Chiều 29.4.1975 sau khi chiến thắng Đồng Dù, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng nhận được chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn: Trung đoàn pháo của anh sẽ ở lại đóng quân bảo vệ căn cứ - Còn đại quân gấp rút tiến vào nội đô, hợp với các quân đoàn của toàn miền, để kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
 

                     30.4.1975 Lá cờ Quân giải phóng bay trên Nóc Dinh Độc Lập ở Sài Gòn

     Đúng 11 giờ ngày 30.4.1975, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm 28.4 phải lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lệnh ngừng bắn và đầu hàng vô điều kiện. Miền Nam hoàn toàn giải phóng.
      Tiểu thuyết mô tả hình ảnh những người chiến sĩ ôm lấy nhau hạnh phúc. Nhiều người đã khóc. Hạnh phúc lớn quá, tưởng có thể vỡ tim! Họ hò reo vui sướng như những đứa con nít. Lòng những người lính chiến trường thổn thức. Họ muốn gào to lên, gọi vọng về quê hương:
-  Cha ơi! Mẹ ơi! Vợ con và những người thân yêu của ta ơi! Chiến tranh đã kết thúc rồi. Hòa bình rồi!
     Khi đó trong lòng người Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng - Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này? Tôi xin chép lại đoạn cuối của cuốn tiểu thuyết: 
     " Buổi trưa ngày 30.4.1975, trên căn cứ Đồng Dù nắng chói chang như đổ lửa. Trong gian phòng của Ban chỉ huy trung đoàn pháo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lặng lẽ đứng bên cửa sổ nhìn ra xa. Anh thấy cả một bầu trời đỏ như một dòng sông máu ( mở ngoặc - Hình ảnh "dòng sông máu" minh họa về sự đau thương, tang tóc do chiến tranh gây ra )... Máu của những chiến sỹ cách mạng đi làm nhiệm vụ giải phóng từ mấy chục năm nay, máu những đồng đội anh vừa ngã xuống hôm qua bên cửa ngõ Sài Gòn, và cả máu của bao chiến sỹ vừa chết trong trận chiến sáng nay ở nội đô, thành phố được coi là "hòn ngọc viễn đông" này.
     Không! Không phải chỉ những dòng máu ấy, mà còn cả máu của hơn một triệu người lính VNCH cũng hòa vào trong đó? Những người lính trận của phía bên kia? Họ cũng đã phải chết rất tang thương...
        ( Đoạn này thể hiện tính hòa hợp dân tộc của tác giả )
  - Họ đâu phải là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh? Họ cũng là con em của dân tộc này! Chỉ có kẻ gây ra cuộc chiến tranh là do đế quốc Mỹ và lũ tay sai khởi chiến mới có tội: Phải bị lên án tới muôn đời!... Trong dòng sông máu loang đỏ kia, còn cả máu của những người thân và đồng bào ở thành phố và những làng thôn nơi quê hương anh... cũng đã phải đổ xuống vì chiến tranh ".
      Đấy, bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái kết thúc ở đó.               
 * PHẦN II - Chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc, được diễn tả theo cuộc đời Thu. Thu tốt nghiệp trường đại học sư phạm, nhưng xin chuyển sang làm phóng viên của tờ báo Hà Nội Mới ở Hà Nội - Cũng vào giai đoạn Mỹ ném bom để hủy diệt thủ đô trong 12 ngày đêm - Cuộc chiến tàn khốc ấy được diễn tả qua hai chương:
-  Chương X:   Hà Nội cuộc sơ tán vô tiền khoáng hậu
-  Chương XI:  Hà Nội 12 ngày đêm


                          Hà Nội 12 ngày đêm 1972
 
      Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho nhân dân phải "cấp tán" - Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố, vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm thành phố. Tiểu thuyết đã phục lại một số cảnh điển hình "vô tiền khoáng hậu" của dân tình năm ấy.
     Ngày 17.12.1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng: Gọi là "chiến dịch Linebacker II" bắt đầu. 
    Vào 19h20 phút ngày 18.12.1972, nhiều tốp máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài, Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời. Khói lửa mịt mù... Báo hiệu cuộc đụng độ lịch sử, giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô của cộng sản - Mở màn cho chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội - Điên Biên Phủ trên không", với các siêu pháo đài bay B52, những con "ngoáo ộp" Mỹ.
     Tiểu thuyết diễn lại hai trận ném bom tàn khốc nhất của không quân Mỹ trong 12 ngày đêm: 
-  Đêm 21 rạng ngày 22.12, làm đổ sập hoàn toàn bệnh viện Bạch Mai, rất nhiều người bị thương và chết...
-  Đêm 26.12.1972, chúng đã trút bom xuống hủy diệt khu phố Khâm Thiên, nơi toàn dân thường ở: 17 khối phố bị đánh đổ sập. Phá và hư hại gần 2.000 ngôi nhà... trong đó có cả nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình chùa di tích lịch sử, rạp hát và nhiều cơ sở sản xuất - Làm chết 278 người, trong đó có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em - 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người nữa bị thương. Toàn bộ khu phố Khâm Thiên dài 1.200m, chỉ còn là một đống gạch vụn. Hàng trăm gia đình phải chịu cảnh tang tóc. Có gia đình 7 người không còn ai sống - Một tội ác của giặc Mỹ chưa từng có trong lịch sử loài người - Chỉ riêng ở Hà Nội, chúng thả xuống 10.000 tấn bom tương đương quả bom nguyên tử Mỹ đã ném xuống Hiroshima... 
      Thu bị chết vì bức tường đổ sập đè lên người... khi cô cùng nhóm phóng viên của Tòa báo Hà Nội Mới, trong đội cảm tử ở lại thành phố làm nhiệm vụ cứu hộ người bị nạn.
     Tiểu thuyết cũng phục lại chiến tích oanh liệt của quân chủng phòng không, không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn dân miền Bắc: Trong 12 ngày đêm... làm nên một "Điện Biên Phủ trên không". Bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay F111 ( cánh cụp cánh xòe) và 42 máy bay chiến thuật khác. Tiêu diệt và bắt sống hàng trăm phi công Hoa Kỳ - Đánh thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ.
     7 giờ sáng ngày 30.12.1972, Nixon buộc phải ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và phải họp lại Hội nghị Pa Ri về Việt Nam.
     Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pa Ri đã được kí kết: Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước.
 
*  PHẦN III: Tình yêu - Tình yêu của Hoàng và Thu đã nẩy sinh từ thuở thanh thiếu niên, khi đôi bạn mới rời khỏi trường phổ thông. Tình yêu đó còn mãi trong trái tim, dù do thời cuộc chiến tranh hai ngả phân ly. Em ở đất Bắc, anh phương Nam - Ngay trong chương đầu, tác giả đã mô tả về tình yêu:
     "... Cô quay người lại kéo anh sát gần vào mình. Núi Nùng đứng dựng lên như thành quách, ngăn cách họ với những bề bộn của cuộc sống bên ngoài. Những cây cối cũng rùng rùng đứng dậy. Gió thổi vút qua những cành lá, sóng vỗ vào mạn bờ lép bép... Thu ôm lấy Hoàng. Đôi bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của cô, ghì xuống đầu anh. Đôi trẻ tha thiết hôn nhau, những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Như những đợt sóng táp lên mặt, lên trán rồi ướt đẫm đôi môi cô. 
-  Không bao giờ chúng ta quên nhau!
    Thu bồi hồi nói trong hơi thở.
-  Không bao giờ ta quên!
     Hoàng đắm đuối nhìn vào mắt người yêu, khẽ nhắc lại.".
     Khi hai người đã xa nhau - Hoàng ra chiến trường, Thu tiếp tục cuộc đời người nữ sinh sư phạm. Tác giả tả về nỗi nhớ người yêu của người chiến sỹ trên chiến trường:
     "... Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được của Thu hai lá thư. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
     Hay là:
     ... Trong lá thư mà anh nhận được hồi đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: Không quân Mỹ ngày càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa - chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội và thanh niên tự vệ là ở lại.
    Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm bên người bạn gái. Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya... Cũng có thể, ngày mai thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này. Anh không còn có thể trở về gặp lại người con gái thuở ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát từng kỉ niệm nhỏ êm đềm... nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể cả cái chết trên chiến trường đến bất cứ lúc nào? Cuộc chiến tranh đã tôi luyện cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến sĩ trên quê hương, về gia đình họ... chứ không phải bản thân những người lính như các anh.". 
    Còn tình yêu của Thu dành cho Hoàng trong những ngày xa nhau? Ta hãy nghe nhà văn tả tình cảm của cô gái:
     "... Thu ngồi trên một bộ bàn ghế đóng mộc mạc, cắm cúi viết thư. Cô viết:
-  Nếu tình yêu của Thu có thể giúp cho Hoàng thêm phần nào lý trí, để Hoàng vững tin trên con đường đời rộng lớn. Thì đấy, chính là niềm hạnh phúc đã đến với Thu! Thu sung sướng thấy được, khi chúng ta có những tình cảm sâu sắc gắn bó với nhau - mà ở đó, mỗi đứa biết vượt lên cái riêng mình... ". 
    Hay là: "Anh thân yêu! Ở tận chiến trường xa xôi có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu, đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em - Thu đang nghĩ đến anh đây, anh có biết không?". 
    Và cô gái ấy có cái mơ ước đơn giản như bao người con gái khác - Nhà văn Phạm Ngọc Thái đã diễn tả tâm lý bình dị mà thiêng liêng của người con gái, với người yêu ở nơi tiền tuyến:
     "... Một tình cảm rạo rực trào lên trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới khi anh về phép... với niềm vui thật khó tả... Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức - Đó là một ngày trọng đại của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong đời có một lần mặc đồ áo cưới" !?
      Nhưng rồi cái ước mơ bình dị và thiêng liêng ấy không bao giờ đến được với cô? Chiến tranh - Chính là tội ác của chiến tranh đã cướp đí tất cả. Cô đã ngã xuống dưới một bức tường đổ sập vì bom, đè lên tấm thân mỏng mảnh của người con gái - Và không bao giờ còn được mặc bộ váy cưới trong ngày vui của người thiếu nữ nữa.
     Còn đây? Ta hãy nghe những dòng thư cô viết cho người yêu trong đêm nô-en 1972 của 12 ngày đêm máu lửa đó:
     "...  Sau khi dự lễ ở nhà thờ, bọn em còn lang thang thâu đêm... rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho anh đây!... Chúng mình tuy rất xa nhau nhưng vẫn luôn có nhau, phải không anh?
    Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! - Thì cô gái nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con... sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!".           
     Đọc đến đây thì chính ta muốn khóc? cả cái ước muốn, hạnh phúc bình thường làm vợ, làm mẹ của người con gái đó cũng không bao giờ đến được với em - Bom Mỹ đã tàn phá đi tất cả. 

 
           Hà Nội mừng chiến thắng Điện Biên Phủ trên không 1972

     Lá thư dài năm trang giấy pơ luya màu hồng của Thu viết trong đêm nô-en, chưa kịp gửi cho người yêu thì cô bị chết. Mấy năm sau, Hoàng mới nhận được.
      Về Hoàng - Đất nước không còn chiến tranh nữa, nhưng lòng người sỹ quan ấy lại trào lên một nỗi buồn tê tái. Người yêu của anh mãi mãi không thể trở lại với anh? Những trang cuối cuốn tiểu thuyết, đã dừng lại trong những tâm trạng đó! Ta hãy nghe đoạn, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng giở lại lá thư của em ra đọc:
    "... Bàn tay anh vẫn run run cầm lá thư của người yêu. Anh cố ghìm lòng mình bình tĩnh. Một đoạn Thu đã viết:
    ... Hoàng thân yêu, Thu yêu anh nhiều lắm, yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng chính là mối tình đầu cũng là mối tình vĩnh viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải không anh? Em cũng đã dành cho anh trọn vẹn những gì quí giá nhất của người con gái. Em thấy hạnh phúc vì đã làm với anh điều ấy!
     Nghĩ đến anh là em lại thấy lòng mình bình yên và ấm áp. dù đêm mùa đông giá lạnh, phải sống xa anh cả nghìn cây số. Em ngồi viết thư cho anh đây, một mình em một bóng cô đơn. Tình yêu anh đã nâng đỡ em rất nhiều trong những vấp váp đầu đời, đấy anh!
....  Ôi, cứ nghĩ tới những ngày tới anh về phép, lòng em lại bồn chồn khôn tả? Em mong đợi ngày đó biết chừng nào. Khi đó đôi ta sẽ chính thức trở thành chồng, thành vợ - Phải không anh?
     Cứ mỗi lần đọc đến đây, Hoàng lại thấy run bắn người. Anh như muốn òa khóc nấc lên tựa một đứa trẻ con... ".
      Đấy, trong những trang cuối cùng tiểu thuyết đã kết như thế! Để nói lên: Hạnh phúc lớn lao của đất nước... đã phải trả bằng bao nhiêu máu, sự hy sinh, nỗi đau đớn của những người chiến sỹ và của cả dân tộc này.
....              
     Nhưng nói về tình yêu trong cuốn tiểu thuyết, còn xuất hiện một người con gái nữa !? Em cũng yêu Hoàng tha thiết - Mối tình tay ba chăng? Không hẳn thế, vì trong truyện không có sự tranh giành tình yêu.
     Đó là tình yêu của một thiếu nữ người Mường, anh đã gặp trên đường hành quân đi chiến đấu. Tên em là Mỵ! Tiểu thuyết đã mô tả về sự gặp gỡ, dẫn đến cuộc tình tha thiết của người con gái bản với anh... vào một mùa xuân:
   
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2021 13:08:48 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 18.05.2021 12:44:25
 
    "... Họ đi qua những cành đào đung đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-  Anh Hoàng, em rất mến anh!


                          Gái bản và mùa xuân rừng Hòa Bình
     Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây... chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu bủa vây. Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác toàn thân cô đang đổ sụp. Lúc này người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
     Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã hấp dẫn anh...
     Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy ư!" - Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè, không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát và ham muốn được khai phá...
     Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-  Mình có làm gì tồi tệ đâu?
     Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những tình cảm rất đẹp với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong lòng anh... và ta lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi thanh xuân với em.
    Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái. Tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng của người thiếu nữ mới lớn.".
     Tưởng rằng những tình cảm trai gái cuốn chàng chiến sỹ sẽ chỉ dừng lại ở đây !? Nhưng không, khi lòng anh cảm thấy sự sa đà ấy là anh có lỗi với Thu - Nhân khi có lệnh cắm trại để chuẩn bị sẵn sàng tiến ra tiền tuyến, tết đó anh không vào bản nữa... cũng là để tránh không gặp Mỵ. Nhưng lúc này người con gái Mường trong trắng, thật thà lại rất tha thiết với anh... và cô cho rằng, những lời ngọt ngào mà anh đã nói là tình yêu của anh dành cho cô? Với bản sắc mãnh liệt của người con gái bản, Mỵ lao đi tìm người yêu, trước khi anh lên đường ra chiến trường. Thế là cuộc tình thứ hai của anh chiến sỹ Nguyễn Hoàng đã diễn ra - Đây là đoạn tác giả tả khi cô đã gặp anh: 


     Nhà văn Phạm Ngọc Thái tuổi hai mươi

     "... Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng tha thiết biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở trong vườn đào ấy? Rồi anh đi. Lúc này chúng mình không nghĩ về chuyện khác nữa. Chỉ nghĩ đến em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
     Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt trận, để cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
     Hoàng như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ, cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi, đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? Lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam...
    "Anh là của em..." - Tiếng cô gái đang yêu, thầm thì bên anh.
     Hoàng không tránh khỏi những tâm tư, trì chiết ở trong lòng? Tác giả mô phỏng sự tự vấn đó: 
     "... Hoàng không thể nào nói nổi với Mỵ cái điều mà anh muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào!  Nhưng anh không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy nghĩ..." .
     Cứ tưởng, rồi tình yêu thứ hai này của Hoàng cũng chỉ đến đấy, khi anh đã ra trận? "Chiến tranh sẽ xóa đi tất cả - Hoàng nghĩ vậy". Nhưng không, Phạm Ngọc Thái lại phát triển tình yêu đó đi xa hơn. Anh để người con gái bản, vì thương nhớ người yêu?... Thời gian sau đó, khi anh đã ở ngoài tiền tuyến rồi - Cô cũng quyết định xin ra chiến trường. 
     Truyện thì dài. Mỵ cũng vào cùng chiến trường Tây Nguyên với anh - Vốn dĩ là một y tá bản, cô được bố trí làm việc ở trong  ban quân y của bộ tư lệnh mặt trận. Rồi Mỵ cũng đã gặp được Hoàng... trong một chiến dịch mà cô được Ban quân y cử đến tham gia chiến dịch phục vụ các đơn vị chiến đấu - Ta hãy nghe một đoạn, người con gái bản đã lý giải về quan hệ tình yêu tay ba, khi gặp lại anh trên chiến trường:
     "... Ít hôm trước, khi Đắc Tô - Tân Cảnh mới được giải phóng, Mỵ cùng với cô Sa người Huế đã tìm đến đơn vị để gặp anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái... Lúc đó anh sững sờ nhìn người con gái bản, cứ nghĩ mình đang mơ? Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, anh đã gieo vào tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim!...
     ... Anh và Mỵ tìm một nơi yên tĩnh trong rừng để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít chuyện trò... cứ như người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về... 
     Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: Nào là chiến trận liên miên, nào là bom đạn nên thư hay thất lạc?... Mỵ nói là rất yêu anh! Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy.... Quả thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng những khoảnh khắc ân ái đang dào dạt tâm hồn. Nhưng giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà của người con gái...
     Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể nào cưỡng nổi. Cô cứ để tấm thân trần mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng chỉ có hai người và tiếng chim kêu...  
     .... Bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu, anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng đứng dậy: "Tình yêu của em dành cho anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa em được nữa" - Một ý nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã đến lúc anh phải nói thật với em tất cả.
     ... Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại tình yêu của người bạn gái thưở thiếu thời ấy!
    ... Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
-  Anh có yêu em không?
-  Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ nhưng anh không thể...
     Hoàng bảo vậy rồi ôm chặt lấy cô, tỏ nỗi cảm thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh - Bởi vì người con gái anh yêu đầu tiên, mà anh gọi là "Thu" ấy... đã đến với anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm, hạnh phúc. Nhất là chiến tranh, con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
     Mỵ bảo: Cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước nên chị ấy sẽ là vợ cả, Mỵ làm vợ hai của anh cũng được. miễn là anh vẫn yêu cô - Em còn nói, em tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh...
     Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ... khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế! Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ kéo Hoàng nằm xuống... ".



      Ôi, chuyện tình yêu của hai anh chị vẫn còn nhiều thú vị - Mời bạn đọc hãy xem trong tiểu thuyết, kẻo bài viết của tôi dài quá.
     Nhưng rồi trong chiến dịch đánh vào Kon Tum sau đó, quân giải phóng bị thất bại phải rút lui - Mỵ bị thương rồi... chết!   
     Thế là, cả hai mối tình của Nguyễn Hoàng với hai người con gái: Một ở lại hậu phương - Một ra tiền tuyến, đều bị cuộc chiến tranh cướp đi, không ai còn ở lại được với anh. Một cái kết thật bi thương! - Đấy chính là cái giá mà nhân dân Việt Nam và những người chiến sỹ đã phải trả cho sự độc lập!  Ta lại nghe Phạm Ngọc Thái nói về cái chết của người con gái chiến sỹ ấy, khi em trút hơi thở cuối cùng trên cánh tay anh:
     ".... Cô ấy chết rồi! Cô ấy không bao giờ tỉnh lại  được nữa... Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em, người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất của thiên nhiên! "con người" nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng!... Anh ghê tởm nguyền rủa cuộc chiến tranh phi nghĩa do Mỹ gây ra. Em vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của chủ nghĩa nhân văn - Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc này. Người liệt sĩ vô danh.".
       Một bộ tiểu thuyết tâm lý chiến tranh sâu sắc, sống động, ngôn ngữ đẹp và không kém vẻ ly kỳ... về thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ - Của một nhà văn chiến binh, từng sống trọn tuổi trẻ của đời mình trên chiến trường Tây Nguyên máu lửa. Theo tôi: Bộ tiểu thuyết có giá trị lịch sử cũng như đối với nền văn học nước nhà. 
 
                                          Hà Nội, tháng 8.2020
                                                   Trần Đức 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 18.05.2021 13:02:32 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 18.05.2021 12:45:23
 
            
 
 
 
                     MỤC LỤC  
                                                                                       *  Trên VNTHUQUAN                                                   
                       * Có 4 cột – Mỗi chữ số chỉ một khuông trong các cột của website VNTQ
 
                                                         CỘT 1.
 
1.     LỜI NÓI ĐẦU                                                     Người Làm Sách        - 
2.   a/. Bàn về tập sách “PNT chân dung
                              nhà thơ lớn thời đại”                     Trần Đức
     b/.  Tập thơ mang tầm vóc thi hào                         Nguyễn Thị Hoàng
3.    Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá      Nguyễn Thị Xuân
4.    Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối         * Thơ                          
           -  Một kiệt tác thơ tình                                     Nguyễn Thị Xuân
5.    a/.  Người đàn bà trắng      * Thơ  
            -  Bài thơ hàng đỉnh Phạm Ngọc Thái             Trần Đức
      b/.  Mấy nét tình sử về bài thơ
                                        “Người đàn bà trắng”          Anh Nguyễn
6.    Anh đứng nhìn theo bóng chim câu        * Thơ  
           -   Bài thơ tình nhà thơ yêu nhất                       Trần Đức
7.    Đất nước tôi yêu        * Thơ  
           -  Bài thơ Tổ quốc hay                                      Nguyễn Thị Hoàng
8.    Đời văn chương Phạm Ngọc Thái và
              Tầm vóc “Tuyển thơ chọn lọc”                     Nguyễn Thị Hoàng
9.    Liên hệ thi pháp bài “Người đàn bà trắng”
                      với “Đây thôn Vĩ Dạ” của HMT           Nguyễn Thị Hoàng
10.  Phạm Ngọc Thái chân dung
                    nhà thơ tình lớn của dân tộc                   Nguyễn Đình Chúc
11.    Thư về “Tuyển thơ chọn lọc” gửi Chủ tịch HNVVN
               và Viện trưởng Viện văn học VN                 Phạm Ngọc Thái
12.   Ta khóc cho ta     * Thơ                                                          
13.   Người thôn nữ miền sông nước         * Thơ  
             -  Một thiên tình ca tuyệt vời                          Tuyết Nga
14.      CHÙM THƠ CHỌN 1 PNT
         -  Tiếng anh gọi
       -  Em sống mãi bên anh
        -  Mẹ quê hương
        -  Vĩnh biệt con yêu
        -  Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau
        -  Nghe tin em sốt                                                      
       -  Người con gái sông xưa                                 
      -  Thế giới nàng
15.   Tập “64 bài thơ hay” và sự nghiệp thi ca PNT    Nguyễn Thị Hoàng

                                       CỘT 2
16.   Làm ma em vợ         * Thơ         
        -   Thơ sâu nặng nỗi kiếp người                          Đào Viết Minh
17.   Tiếng hát đời thường        * Thơ  
        -    Nghĩa vợ chồng hòa trong
                             Tình yêu quê hương                      Phạm Thành Công
18.   Phố thu và áo trắng   * Thơ                     
         -   Em và mùa thu                                                Đình Bồng
19.       CHÙM THƠ CHỌN 2 PNT
         -  Khóc Hàn Mặc Tử                   
        -  Người thôn nữ quê hương              
         -  Những kỉ niệm bên con            
        -  Phút cô liêu, dừng lại ngóng người xưa          
         -  Tình chết rồi! Giữ lại cho thơ                                               
       -  Biển hát            
        -  Trăng lặn               
20.    Những ai so dây cùng Nguyễn Du                            Trần Đức
21.    Nỗi trăn trở người đi tìm vàng    * Thơ  
         -  Cảnh xuất khẩu lao động ở nước ngoai                 Khánh Hòa
22.    Con đường phượng đỏ   * Thơ                         
       -  Nuối tiếc tình yêu thuở ban mai                            Nguyễn Thị Hoàng
 
23.    Xem tranh bán lõa thể      * Thơ              
        -  Một kỳ tác thi ca                                                    Anh Trần
24.    Anh vẫn ở bên Hồ Tây         * Thơ             
        -  Cảm nhận về bài thơ tình hay                                Hoàng Thị Thảo
25.     CHÙM THƠ CHỌN 3 PNT
        -  Trái tim tan vỡ                        
        -  Em nghe                         
         -  Tạ tội trước tình yêu                       
        -  Trong mưa                            
         -  Em tắm                
        -  Đêm trung thu và đứa ăn mày          
       -  Sáng xuân nay                                       
26.    Về tập “64 bài thơ hay” và những tinh hoa              Nguyễn Thị Xuân
27.    Phạm Ngọc Thái người hai lần thi sỹ                       Trần Việt Thịnh
28.    Một góc Hồ Tây      * Thơ                                 
        -  Bản tình xô nát chiều hoàng hôn cuộc đời            Như Ý
29.    Khoảng trôi trong lá    * Thơ  
        -  Tình trong ký ức                                                    Phương Loan
30.    Thời áo trắng       * Thơ                
         -  Hồi ức tình yêu thuở sinh viên                              Đình Bồng
 
                                      CỘT 3
31.    Phạm Ngọc Thái nhà thơ CCB tài năng
       có cuộc đời hoạn nạn và sóng gió                            Nguyễn Thị Hoàng
32.    CHÙM THƠ CHỌN 4 PNT             
         -  Vớt trăng               
        -  Xuân và vợ                               
        -  Cây hoa bằng lăng trong mưa                     
        -   Đôi mắt nhung em                           
        -   Người đàn bà hóa thân                          
        -   Hoa và em                          
        -   Trái em                      
        -   Em bé cầu bơ               
        -   Thôn nữ tắm dưới trăng    
33.    Váy thiếu nữ bay      * Thơ                   
        -  Một tuyệt phẩm thi ca                                                  Nguyễn Đình Chúc
34.    Động bướm          * Thơ                                 
        -  Một bài thơ thần sầu quỉ khóc                                     Anh Nguyễn
35.    Sáng thu vàng       * Thơ                                                                
        -  Một thiên tình ca mùa thu                                           Tuyết Thúy
36.    Em ơi! Thành phố lại mưa     * Thơ                                
       -  Một tình thơ mưa hay và mộng                                  Nguyễn Thị Hoàng
37.   CHÙM THƠ CHỌN 5 PNT                                           
       -  Nghĩ về Hà Nội                                 
        -  Hàng cây lá đổ                                  
        -  Gió sẽ mang tình ta bay muôn phương                     
      -  Có một khoảng trời                         
       -  Nhìn trăng nhớ em                              
         -  Bài ca xứ sở                      
        -  Đêm nay trời lại không mưa                                    
38.    Khóc bên Hồ Núi Cốc      * Thơ                    
        -  Một bản tình đam mê man dại                                       Diễm Loan
39.    Chiều hoàng hôn      * Thơ                         
        -  Sự thăng hoa của buổi tình chiều                                   Kiều Tuấn
40.    Cô quét lá đêm hồ       * Thơ                                
       -  Nỗi đời trong chốn nhân quần                                       Hoàng Ngọc
41.    Mưa bay trong tiếng chuông    * Thơ                        
        -  Một bản tình mưa ngọt ngào                                          Thảo Hoàng
42.    Trước Núi Mỹ Nhân (1)     * Thơ               
        -  Một tượng thần thủy chung                                        Trương Vũ Tiến
43.    CHÙM THƠ CHỌN 6 PNT                                                                         
       -  Cửa quán                                              
      -  Kí ức mùa thu                                                          
       -  Trước núi Mỹ Nhân (2)                                                        
       -  Thiếu nữ đi trong chiều mây                                    
         -  Tiếng ếch 
       -  Tình thơ gặp lại ở Tây Hồ                 
       -  Trong bóng cây ngủ đêm          
44.    Đêm tóc đá          * Thơ       
        -  Khát vọng của tuổi hoa niên                                            Ngọc Bích
45.    Thông và biển       * Thơ                     
        -  Tiếng hát tâm tình của đôi trai gái                                   Ngọc Trâm
 
                                CỘT 4
46.    Em về biển        * Thơ         
       -   Một mối tình đầy lệ                                                        Phương Tuấn
47.    Cỏ hoang           * Thơ                            
       -  Những kiếp cảnh tha phương cầu thực                            Bảo Ngọc  
48.    Cô áo trắng      * Thơ  
        -  Tình thơ với ái nữ Sài Gòn                                            Đình Bồng
49.       CHÙM THƠ CHỌN 7 PNT                                              
        -  Anh mãi yêu em                            
        -  Đêm thu phố vắng                         
       -  Anh đau xé lòng đành quay gót                    
         -  Em là người tình của lính               
       -  Tiễn anh trên đất khách                  
        -  Em ghen                          
        -  Tiếng rúc chim đêm                    
50.    Em bán xoài        * Thơ     
       -  Người con gái với kiếp giang hồ                                   Trần Ngọc Lâm
51.    Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ      * Thơ                  
        -  Tiếng đàn tình theo bước chân thi sĩ                             Trần Đức 
52.    Chết cũng chỉ như giấc ngủ       * Thơ                     
        -  Một bài thơ trăng trối                                                    Việt Phương
53.    CHÙM THƠ CHỌN 8 PNT    
        -  Đêm thiếu nữ 
        -  Mùa thu với nàng thơ            
        -  Người đàn bà chứa linh hồn thánh linh               
        -  Cây thầm tiếc bóng                         
        -  Cho em gọi tiếng chồng lần cuối                   
        -  Đêm thu trắng                  
         -  Chiều phố gió và mối tình lông ngỗng trắng                  
54.    -  Nhớ về cô giáo cũ                   
        -  Viết cho buổi hoàng hôn                   
        -  Nhớ em đêm noel                    
         -  Vầng trăng che khuất                      
         -  Trăng dạt trong mây                
        -  Hai kẻ đời quấn quit                      
        -  Người đàn bà của mùa thu               
55+56.   Tiểu thuyết chiến tranh của một nhà văn chiến binh         Trần Đức
57.   Phạm Ngọc Thái một thiên tài
     Thi nhân vĩ đại của thi ca hiện đại Việt Nam             Nguyễn Thị Hoàng 
58.   Phạm Ngọc Thái Cây đại thụ.
        Đại thi hào của thi ca hiện đại VN                       Nguyễn Thị Hoàng
59.   Phạm Ngọc Thái và bảy bài thơ tình tuyệt hay      Nguyễn Thị Xuân
60.      Mấy lời trăng trối đầu xuân   
61.     Cựu quân nhân Phạm Ngọc Thái gửi thư lên các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng - Nhà nước và Chính phủ                           
   
 
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.08.2022 18:20:58 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 26.08.2021 17:38:42
                                                     Bài viết đã được gửi lên Quốc hội và Chính phủ
                                                             30.7.2021
 
                               PHẠM NGỌC THÁI MỘT THIÊN TÀI
            THI NHÂN VĨ ĐẠI CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN
 
                                                 Nguyễn Thị Hoàng
                                                          Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
 
 
                   Bản nghị luận dưới đây xin gửi tới: 
     QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
        (Bằng các trang điện tử của Nhà nước và Đảng cộng sản Việt Nam)
  -  Qua những cơ quan: Văn phòng Quốc hội - Ban chấp hành Đảng QH - Ban chấp hành Công đoàn QH - Hội nhà báo QH - Ban Tuyên giáo Trung ương - Lãnh đạo văn phòng QH... 
       Cùng các tổ chức khác trong Chính phủ được biết.
  -  Để nghiên cứu phương hướng chỉ đạo, xác nhận, vinh danh và,  
                                                        có thể công bố ra ngoài thế giới?
 
     Như hai bản nghị luận mà người trong tổ chức văn chương ở thủ đô chúng tôi, đã viết gửi đến Quốc hội và Chính phủ vào các ngày 29.3 - 25.6.2021 mới đây - Hiện văn bản cũng được chúng tôi cho đăng lại trên web. "Việt Nam thư quán" - Mời mở đọc ở link sau:     
               http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=899365
     * Hoặc xem bài trên các trang mạng trong nước:
   https://tranmygiong.blogspot.com/2021/06/gioi-thieu-tac-pham-e-xuat-ban-minh.html?fbclid=IwAR3I_HIZEpYRkKEh4y-t5X-O3iPrfZpUJJVuPFDavf1OFj5D6NHMV_XSfy4 
 
      Trong nghị luận đã có nói đến pho sách:
         MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC
     "Tuyển văn học" này dựng lên cả một sự nghiệp thi ca lớn Phạm Ngọc Thái !!! Độ dày khoảng 400 trang, gồm 100 bài thơ tiêu biểu chọn ra trong đời thi ca tác giả - 46 bài bình thơ hay, tiểu luận đặc sắc về chân dung, thân thế, sự nghiệp văn học của thi nhân. Chúng tôi biên soạn từ những tập sách đã xuất bản của anh, nhất là các tác phẩm chính:
-   PNT phê bình và tiểu luận thi ca,                    2013
-   PNT chân dung nhà thơ lớn thời đại               2014
-   PNT cánh đại bàng của thi ca đương đại VN, 2019 
-   Tuyển thơ chọn lọc,                                         2019                
-   64 bài thơ hay,                                                 2020
        Cùng số bài bình luận mới đây trên văn đàn. 
       Pho sách cũng đã được chúng tôi cho đăng trên "Việt Nam thư quán", theo link dưới đây:
                           http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=897650

       Nguyễn Thị Hoàng
                  A.  NHÀ VĂN - NHÀ THƠ CCB TÀI NĂNG
      Nhà thơ Phạm Ngọc Thái là một cựu chiến binh, từng chiến đấu cả chục năm trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ. Theo trọn cuộc chiến tranh đánh Mỹ của dân tộc... đến tận ngày 30.4.1975 giải phóng Sài Gòn, Mỹ rút về nước. Anh thuộc lớp sinh viên, trí thức yêu nước của những năm sáu mươi thế kỷ trước. Tự nguyện từ bỏ mái trường đại học, theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc lên đường cầm súng ra chiến trường đánh giặc. 
      Mùa xuân Mậu Thân 1968, Phạm Ngọc Thái một chiến sỹ súng máy đại liên thuộc tiểu đoàn 7, tiểu đoàn chủ công của trung đoàn mũ sắt 209, Sư 320 hành quân vào chiến trường. Trận đánh lịch sử, đầu tiên đời anh là cùng E209 - F312 của quân đội nhân dân Việt Nam, đánh nhau với tiểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ vào đêm 26.3.1968 trên đỉnh Chư Tan Kra, tỉnh Kon Tum.
       Đó là một trận đánh khốc liệt, đẫm máu trong đời một người lính trận của anh !? Các chiến sỹ của Tiểu đoàn 7, E209 đều chiến đấu rất ngoan cường, dũng cảm. Không một chiến sỹ nào run sợ, đầu hàng địch...
              ( Dựa theo tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" của Phạm Ngọc Thái )
 
      ... Nhưng họ cũng bị thương vong, hy sinh rất nặng nề. Theo ghi chép trong cuốn "Lịch sử Trung đoàn 209...", Nxb Quân đội 2004 mà chính nhà văn Phạm Ngọc Thái đã mô tả trong Bộ tiểu thuyết lịch sử của mình, rằng: Trong trận Chư Tan Kra, trên 200 chiến sỹ của tiểu đoàn 7 đã không trở về ! Vì trận đánh quá ác liệt đã không thể dứt điểm, nên xác các chiến sỹ tử trận không thể lấy ra được... nằm phơi trên mặt đồi. Sau bị bọn Mỹ lấy xe ủi ủi xuống các hố lớn, tẩm xăng đốt... rồi lấp đất vùi lên. Hơn 200 người chiến binh ấy, hầu hết đều là những thanh niên trai tráng thủ đô ở độ tuổi 18, đôi mươi. Họ là những người con anh hùng của dân tộc này, đã ngã xuống một cách rất thảm khốc, nhưng chí khí kiên cường - Cũng như hàng vạn các liệt sĩ của đất nước ta, đã đổ máu trên chiến trường... trong cuộc chiến tranh đẫm máu năm xưa !? Vì mảnh đất thiêng liêng của dân tộc... vì tổ quốc Việt Nam thân yêu hôm nay: Chúng ta và cả hậu thế mai sau, không có quyền được quên đi sự hy sinh oanh liệt, vẻ vang ấy của họ !!! 

 
     Nhà thơ Phạm Ngọc Thái thời còn chiến tranh
     Nhà thơ Phạm Ngọc Thái chính là một chiến binh trong trận đánh Chư Tan Kra đẫm máu của Trung đoàn 209, sư 312 nói riêng... và trong cả cuộc chiến tranh đánh Mỹ của dân tộc. Anh cùng với hàng vạn thanh niên Việt Nam anh hùng khi đó, đã hiến cả tuổi xuân và xương máu cho cuộc sống được yên bình của tổ quốc hôm nay. Chính anh cũng bị thương trong trận chiến Chư Tan Kra... phải đi viện điều trị lành vết thương rồi lại tiếp tục về chiến đấu, cho đến phút chót của cuộc chiến tranh.           
      Suốt mười năm chiến trận, qua các Trung đoàn 209, Sư 312 - Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên - Trung đoàn 48, Sư 320 - Phạm Ngọc Thái tham gia hầu hết các trận đánh lớn trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ: Như trận đánh giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh 1972, giải phóng Kon Tum 1973... rồi trận chiến quyết liệt ngày 29.4.1975 ở căn cứ Đồng Dù, một hang ổ kiên cố của Sư đoàn 25 Mỹ, được mệnh danh là "tia chớp nhiệt đới", cửa ngõ án ngữ vào Thành đô Sài Gòn...
                                     ( Theo tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu" ) 
 
       Dù chỉ trước một ngày, đến 30.4 toàn miền Nam được giải phóng: Nhưng trong trận chiến Đồng Dù 29.4.1975, chỉ tính riêng Sư 320 của anh, hàng trăm chiến sỹ cũng lại phải bỏ mạng... nằm lại chiến trường, không bao giờ trở về quê hương được nữa. Trong tiểu thuyết nhà văn diễn tả lại: Đó là một trận chiến "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh" !? Những người chiến binh đã phải vượt qua cả xác đồng đội của mình lẫn xác quân thù, để xông lên giành chiến thắng.
      Suốt mười năm đánh trận: Nhà thơ cựu chiến binh Phạm Ngọc Thái đã ba lần bị thương, ba lần đổ máu. Anh được tặng thưởng 5 huân chương chiến công và kháng chiến, cùng danh hiệu dũng sĩ và những hình thức khen thưởng khác.

 

                     B.  MỘT SỰ NGHIỆP VĂN HỌC LỚN
      Từ một người lính trận, qua cả chục năm chiến tranh đến khi kết thúc mới trở về quê hương ở thủ đô. Phạm Ngọc Thái lại tiếp tục theo học đại học mà năm xưa anh phải bỏ dở đi chiến đấu... rồi trở thành người cán bộ của ngành ngoại thương Việt Nam -  Với một khát vọng vô biên trên con đường văn chương? Trong ba mươi năm vừa công tác và lăn lộn cuộc sống mưu sinh, vừa lao mình vào sáng tác. Đến nay, đã cho ra đời gần hai mươi tác phẩm các loại:
-   Xuất bản 11 tác phẩm thơ và bình luận văn học
-   Hai tiểu thuyết
-   5 kịch bản sân khấu lớn, nhỏ.
      Ở lĩnh vực nào Phạm Ngọc Thái cũng đạt được tác phẩm có tầm vóc:
 
                     1. KỊCH BẢN SÂN KHẤU
       Sáng tác cả thảy 5 vở kịch nói: hai dài, ba ngắn.
 *  Khi tác giả đưa 3 vở kịch ngắn đến "Nhà hát kịch tuổi trẻ" ở Hà Nội? Nhà hát chuyên dựng 2-3 kịch ngắn để diễn trong một tối  - NS Chí Trung, đoàn trưởng Đoàn kịch 1 lúc đó (hiện ông là giám đốc của Nhà hát): Xem xong kịch bản, đã nói với tác giả:
    ... Kịch của anh thì hay nhưng là hay với anh, với em? Khó diễn - Gu của khán giả thời nay người ta thích... cười nhiều - Tóm lại, kịch của Phạm Ngọc Thái hay... nhưng thiếu "chất hài' !!! Rồi đoàn trưởng kịch Chí Trung đã biếu tác giả một xê-ri vé, xem cả tháng kịch của Nhà Hát miễn phí. 
 
-     Còn vở kịch dài "Người nhạc trưởng và dàn hợp xướng" lớn nhất của anh. Thời gian tác giả đưa kịch bản đến "Đoàn kịch nói Trung ương"? Giám đốc của nhà hát kịch lúc đó là NS Anh Dũng, Ông nói: 
     ... Vở kịch này khá, diễn được... nhưng phải chờ đến khi hợp thời? "đánh" hơi mạnh quá! Vị giám đốc Đoàn kịch Trung ương nói thêm: Tôi sẽ lưu kịch bản lại đây !? khi thời thế thích hợp, thì sẽ diễn !!! Hiện vở kịch "Người nhạc trưởng và dàn hợp xướng" đó, đang được tác giả trao cho NSND Trung  Hiếu - Giám đốc Nhà hát kịch Hà Nội, là một đoàn kịch lớn cỡ quốc gia - Nghe nói, Ông giám đốc Nhà hát kịch Trung Hiếu đã đọc kịch bản và bảo, sắp tới sẽ đưa ra Hội đồng nghệ thuật xem xét.
     Tôi diễn giải như thế, chỉ để muốn nói rằng: Kịch bản của Phạm Ngọc Thái, từ kịch ngắn tới kịch dài? Đều đủ tầm để công diễn trong các đoàn kịch quốc gia.
 
                   2.  VỀ TIỂU THUYẾT
     Khi tự thấy đã hoàn thành sự nghiệp thi ca. Tác giả nói như  vậy -  Phạm Ngọc Thái bắt đầu chuyển sang viết tiểu thuyết. Điều đặc biệt là? Tuy chỉ mới viết tiểu thuyết, nhưng vừa sáng tác xong: Anh đã được công ty sách com măng xuất bản ngay... và phát hành rộng rãi trong quân đội. Tác giả không phải bỏ tiền in sách mà được hưởng tiền nhuận bút. Trong hai năm Phạm Ngọc Thái trình làng liền hai tác phẩm: 
-   Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm   2019
-   Chiến tranh và tình yêu                  2020 
 
     " Chiến tranh và tình yêu" là bộ tiểu thuyết dài hai tập, có tính dã sử khá đồ sộ. Nó đồ sộ không phải về trang sách mà là tầm vóc, trữ lượng thời đại chứa đầy ắp trong tác phẩm - Bởi tác giả chính là một chiến binh đã từng tham gia suốt cuộc chiến tranh đánh Mỹ, nên các tình tiết lịch sử và chiến trường được mô tả rất sinh động, sắc bén. Tính dân tộc cùng tình yêu gái trai quyện vào nhau nồng nàn, tha thiết, cao đẹp! Diễn biến được khắc họa ly kỳ, chìm trong sự thảm khốc đau thương bởi chiến tranh - Tiểu thuyết có tính xã hội sâu sắc, điển hình trong thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ ở Việt Nam. 
      Nghe tác giả nói: Anh chuẩn bị trình làng một thiên tiểu thuyết mới: " Tình yêu của em và đứa con"... 

 

               C.  MỘT THIÊN TÀI THI CA HIỆN ĐẠI VIỆT NAM
      Thi ca mới là sự nghiệp chính, chân dung văn học căn bản của Phạm Ngọc Thái - Tôi nói Phạm Ngọc Thái là một thiên tài của thi ca hiện đại Việt Nam !? Bởi vì, trong lịch sử của ngàn năm văn hiến Thăng Long - Kể cả thơ cổ và thơ hiện đại (trừ KIỀU bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc loại tiểu thuyết thơ) - Còn những thi phẩm "thơ ngắn"? Chưa có thi nhân nào sáng tác được một khối lượng nhiều thơ hay như Phạm Ngọc Thái, nhất là thơ tình. Anh là nhà viết thơ tình hay nhất của đương đại hiện nay.
                     ( Xem trong "Tuyển thơ chọn lọc" và "64 bài thơ hay" )
 
     Cũng chưa có thi nhân nào có nổi một tuyển thơ thật sự tầm vóc như "Tuyển thơ chọn lọc", Nxb Hồng Đức 2019 của anh: Với trên 200 bài thơ chọn lọc trong đời thi ca !? Số lượng bài thơ tình tuyệt hay vào hàng kiệt xuất, và thơ hay đã đạt được... nhiều nhất trong thi đàn xưa nay !!! Dựng lên như một "trường thành thi ca" đối với nền thơ hiện đại Việt Nam.
      Trong hai bản nghị luận trước gửi lên Quốc hội và Chính phủ, cũng đã nói. Tôi sẽ xin dẫn giải kỹ sau
 
     Nói về thơ hay? Tôi đã từng bình luận rằng: Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời, thơ của mọi thời đại: Đó là loại thơ có hàng đẳng cấp cao nhất. Như:
       Đèo ngang của BHTQ  /   Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương  /  Thương vợ - Tú Xương  /  Thu điếu - Nguyễn Khuyến  /  Tràng Giang - Huy Cận  /  Tranh lõa thể - Bích Khê  /  Tương tư - Nguyễn Bính  /  Đây thôn Vỹ Dạ;  Mùa xuân chín;  Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử  /  Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH.  /  Thuyền và biển - Xuân Quỳnh  /  ...
     Đó là những bài thơ tuyệt hay của ngàn năm văn hiến.

 
      Trong đời thi ca Phạm Ngọc Thái dù là "thơ tình" hay "thơ đời", anh chỉ sáng tác loại thơ có khả năng sống trường cửu đó. Qua thời gian đã sàng lọc những đánh giá trên văn đàn, tôi nhận định: Loại thơ tuyệt hay hàng đỉnh, tương đương với những tuyệt phẩm trong ngàn năm Thăng Long như đã nêu trên - Phạm Ngọc Thái có 7 bài: 
          *  Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối  /  Em về biển  /   Anh đứng nhìn theo bóng chim câu  /   Người đàn bà trắng  /   Váy thiếu nữ bay  /  Làm ma em vợ   /  Em bán xoài.
 
       Còn những bài thơ hay, thơ tinh sắc khác của anh thì nhiều lắm:
         *  Khoảng trôi trong lá;   Đất nước tôi yêu;   Người thôn nữ miền sông nước;   Tiếng hát đời thường;   Phố thu và áo trắng;   Khóc Hàn Mặc Tử;   Trước Núi Mỹ Nhân;   Khóc bên Hồ Núi Cốc;  Cô quét lá đêm hồ;   Em ơi! Thành phố lại mưa;   Anh vẫn ở bên Hồ Tây;  Một góc Hồ Tây;   Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau;   Em tắm;   Con đường phượng đỏ;   Nghe tin em sốt; v.v... 
                           ( Các bài thơ đều có trong tập "64 bài thơ hay" )
 
      KẾT LUẬN: Trong văn hiến của ngàn năm Thăng Long nói chung và thơ ca hiện đại nói riêng? Trừ truyện Kiều của cụ Nguyễn Du - Chưa có thi nhân nào sáng tác được nhiều thơ hay đến thế !!! 
     Nghìn năm qua chưa có - Nghìn năm sau không biết có có không ??? 
 
     Bởi vậy, chúng tôi mới nói rằng: Phạm Ngọc Thái là một thiên tài. Thi nhân vĩ đại của thi ca hiện đại Việt Nam!
 
            D.  CÁC THI NHÂN VĨ ĐẠI THƯỜNG HỌ ĐỀU BIẾT MÌNH VĨ ĐẠI
     Hầu hết các nhà thơ vĩ đại trong nhân loại, khi đương thời đang sống? Họ đều biết mình vĩ đại !
-   Thiên tài Pushkin, mặt trời thi ca của nước Nga từng viết:
                    Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết
                    Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
                    Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
                    Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi
      Nghĩa là, Ông khẳng định sự bất tử và vĩ đại của mình. Dù trên đời chỉ còn một thi nhân, thi nhân ấy là ta ! Danh tiếng ta sẽ vang đời đời, mãi mãi...
 
-   Đại thi hào Walt Whitman nước Mỹ? Lúc đang còn sống, tác phẩm "Lá cỏ" của Ông bị rất nhiều văn sĩ nước Mỹ dè bỉu, chê bai: Nào là thấp kém, thông tục, tầm thường... Có nhà thơ rất tên tuổi thời đó, được Whitman gửi biếu sách? Để tỏ rõ thái độ khinh mạn của mình, nhà thơ này đem xé đôi cuốn sách rồi gửi bưu điện trả lại cho Ông - Người duy nhất tin vào tương lai của tác phẩm "Lá cỏ", và khẳng định về sự vĩ đại của minh !? Chính là bản thân Whitman ! Trong bài thơ viết về thành phố New York, Ông viết:
     " Hỡi thành phố, sẽ có lúc Người trở nên nổi tiếng: Vì ta đã sống ở đây " - Ông đã đúng, chính tập thơ "Lá cỏ" đã đưa Walt Whitman trở thành đại thi hào... và Ông đã được phong là người sáng lập ra nền thi ca mới của Mỹ.
 
-   Đại thi hào Nguyễn Du của Việt Nam chúng ta cũng thế !!! Người rất biết truyện KIỀU của mình là một tác phẩm bất hủ, để tên tuổi Người có thể vang danh đến muôn thu !? Nên khi đưa Kiều vào đọc trong chốn dân tình heo hút, lãng quên... Người đã than:
                  Bất tri tam bách dư niên hậu
                  Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
     Không biết hơn ba trăm năm nữa, liệu nhân thế có ai người sẽ khóc Nguyễn Du?
 
-  Trở lại về thi nhân Phạm Ngọc Thái - Vào mùa đông 2019, khi xuất bản "Tuyển thơ chọn lọc" :  Anh đã viết một "huyết thư" gửi cùng với tác phẩm, cho ông Chủ tịch HNVVN và PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp - Viện trưởng Viện văn học Việt Nam.
      Lá thư đề ngày 26.12.2019 có đoạn viết: 
      " Hôm nay, tôi cho xuất bản TUYỂN THƠ CHỌN LỌC Phạm Ngọc Thái... với hơn 200 bài thơ tự do hiện đại các loại, chọn lọc trong suốt đời sáng tác thi ca của tôi.
     Đánh giá về Tuyển thơ?... Tôi tin chắc chắn rằng: Trong dãy thi sơn có nhiều ngọn, tôi đã lên đến điểm đỉnh một ngọn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ gì đó...! Nhất là thơ tình, của thi ca hiện đại Việt Nam.
 
      ... Nay tôi đã ngoài 70 xuân, sức khỏe cũng không tốt, chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa? Nếu để cho tôi nói lên tiếng nói từ trong thẳm sâu tâm tư của lòng mình, thì tôi xin nói rằng: Trong văn hiến nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du - Thì thơ ca hiện đại Việt Nam cũng có Phạm Ngọc Thái. Vâng, tôi tin chắc như vậy!
      ... Nguyễn Du năm xưa còn phải than:
                                 Bất tri tam bách dư niên hậu
                                 Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
     Huống chi ngày nay, theo tôi: Tuy khả năng thông tin xã hội có bùng nổ mạnh lên, nhưng sự nhận thức về thi ca, nhất là thơ tự do hiện đại lại hỗn loạn và manh mún hơn.
      Nam mô a di đà phật ! Cầu mong tất cả được quang minh. ".
 
      Thi nhân đã khẳng định mình như vậy! Đồng thời, anh còn để lại cho đời một bài thơ tự thán: "Ta khóc cho ta", có đoạn viết:
                                 Quan san muôn dặm sơn hà
                                 Nguyễn Du người trước, tôi là người sau
                                 Hôm nay rỏ chút lệ sầu
                                 Thương Người rồi lại chạnh đau phận mình
                                 ....    
                                 Nguyễn Du ơi, đón tôi cùng
                                 Một mai tôi sẽ lập hương khói thờ
                                 Người Đường Cổ - Tôi Tân Thơ
                                 Ngàn năm văn hiến xin thưa cùng Người.
                                              ( trích "64 bài thơ hay" )
 
    Kính thưa Quốc hội và Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
                  Hiện nhà thơ Phạm Ngọc Thái đang trú ngụ tại:
        Ngõ 218, ngách 27/8 số 19, phố Lạc Long Quân, Quận Tây Hồ, Hà Nội
               -   ĐT:          038 302 4194
               -  Email:       ngocthai1948@gmail.com
 
     Quốc hội và Chính phủ có thể cử người - Hay trực tiếp Ban Tuyên giáo Trung ương, tới gặp nhà thơ tại nhà riêng. Nhà thơ vẫn còn đầy đủ những tác phẩm chính, phát hành ở các nhà xuất bản của quốc gia… để biếu các Quí ngài.
     Hoặc Quốc hội và Chính phủ cho trát mời ! Nhà thơ Phạm Ngọc Thái sẵn sàng lên trình diện Trung ương.
 
                                          Hà Nội, cuối tháng 7.2021
                                                Nguyễn Thị Hoàng
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 26.08.2021 18:09:09 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 14.09.2021 12:00:52
 
 
                                     PHẠM NGỌC THÁI CÂY ĐẠI THỤ,
                 ĐẠI THI HÀO CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN
 
                                                    Nguyễn Thị Hoàng
                                       Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm
 

                     Đã gửi tới: 
        QUỐC HỘI VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XHCN VIỆT NAM
                                              Ngày 4.9.2021
                    (Bằng các trang điện tử của Nhà nước và Đảng cộng sản Việt Nam)
  -  Qua những cơ quan: Văn phòng Quốc hội - Ban chấp hành Đảng QH - Ban chấp hành Công đoàn QH - Hội nhà báo QH - Ban Tuyên giáo Trung ương - Lãnh đạo văn phòng QH... 
       Cùng các tổ chức khác trong Chính phủ được biết.
  -  Để nghiên cứu phương hướng chỉ đạo, xác nhận, vinh danh và,  
                                                        có thể công bố ra ngoài thế giới?
 
     Trước hết xin trả lời câu hỏi? Tại sao lại kết luận:

 
      Nguyễn Thị Hoàng
                    A. PHẠM NGỌC THÁI CÂY ĐẠI THỤ  
                 ĐẠI THI HÀO CỦA THI CA HIỆN ĐẠI VN 
      Tôi từng bình luận: Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long, phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu tháng năm, tồn tại muôn đời, thơ của mọi thời đại - Đó là loại thơ có hàng đẳng cấp cao nhất.
Không kể Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay lưu vọng trong thi đàn Thăng Long xưa nay, như: 
       Đèo ngang của BHTQ  /   Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương  /  Thương vợ - Tú Xương  /  Thu điếu - Nguyễn Khuyến  /  Tràng Giang - Huy Cận  /  Tranh lõa thể - Bích Khê  /  Tương tư - Nguyễn Bính  /  Đây thôn Vỹ Dạ;  Mùa xuân chín;  Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử  /  Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH.  /  Thuyền và biển - Xuân Quỳnh  /  ...    
     Những thi phẩm tuyệt hay hàng đỉnh, tương đương với những tuyệt phẩm của ngàn năm văn hiến Thăng Long như đã nêu trên,  Phạm Ngọc Thái có 7 bài: 
          *  Em về biển  / Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối  /  Anh đứng nhìn theo bóng chim câu  /   Người đàn bà trắng  /   Váy thiếu nữ bay  /  Chuyện về hai ngôi mộ cha con mai sau  / Làm ma em vợ.
       Nói về những bài thơ hay hoặc thơ tinh sắc khác của anh thì nhiều lắm ! Nhà bình luận văn học Nguyễn Đình Chúc, trong tiểu luận với nhan đề:

 
 
                         PHẠM NGỌC THÁI
              CHÂN DUNG NHÀ THƠ TÌNH LỚN CỦA DÂN TỘC
    Đã viết: " Thi ca Phạm Ngọc Thái dù là thơ tình hay thơ đời, những bài đạt độ viên mãn về ý tưởng cũng như ngôn ngữ nghệ thuật và tính nhân văn là rất nhiều. Mức độ hay mỗi bài khác nhau, nhưng những tình thi đó đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ. Về bút pháp nhiều bài thơ tình của anh được hòa trộn trong khuynh hướng của dòng thơ tượng trưng hiện đại châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Điển hình là thuyết " tương ứng cảm quan" của nhà thơ tương trưng bậc thấy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) lúc đó chủ xướng. ".
                         ( Trích Tập " Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại ", 2014 )
 
     Chưa từng có thi nhân nào trong ngàn năm văn hiến Thăng Long viết được nhiều thơ hay như thế, nhất là thơ tình. Mỗi bài hay một vẻ nhưng đều vụt ra từ trong sự rung động sâu sắc của trái tim - Xin kể ra vài chục bài tiêu biểu:
         *  Khoảng trôi trong lá;  Em bán xoài;  Em sống mãi bên anh;  Đất nước tôi yêu;  Mẹ quê hương;  Nhìn trăng nhớ em;    Người thôn nữ miền sông nước;   Tiếng hát đời thường;   Phố thu và áo trắng;   Khóc Hàn Mặc Tử;  Xem tranh bán lõa thể;  Trước Núi Mỹ Nhân;   Khóc bên Hồ Núi Cốc;  Cô quét lá đêm hồ;   Em ơi! Thành phố lại mưa;   Anh vẫn ở bên Hồ Tây;  Một góc Hồ Tây;   Em tắm;   Con đường phượng đỏ;   Nghe tin em sốt;  Ký ức mùa thu;  Sáng thu vàng;  Vĩnh biệt con yêu;  Dưới hàng sấu đêm và con phố nhỏ;  Đêm tóc đá;  Em là người tình của lính;  Đêm nay trời lại không mưa;  Biển hát;   Sáng xuân nay; Tạ tội trước tình yêu;  Trái tim tan vỡ;  Thời áo trắng;  v.v... 



 
    Chưa nói đến cả "Tuyển thơ chon lọc", Nxb Hồng Đức 2019 của Phạm Ngọc Thái? Một Tuyển thơ dầy 368 trang với trên 200 bài thơ chọn trong đời thi ca, là cả một thế giới thơ tự do hiện đại các loại: Từ thi pháp thơ hiện thực đến tượng trưng pha màu sắc thơ siêu thực... Được thể hiện bằng một bút pháp tinh luyện, tạo nên vô vàn những áng thi huyền thẳm, đặc sắc ! Dựng lên như cả " Trường thành thi ca" đối với nền thơ hiện đại Việt Nam. Đều thuộc trong dòng thơ có khả năng sống trường cửu thời gian.
     Như chính thi nhân đã khẳng định về tác phẩm "Tuyển thơ chọn lọc" của mình, trước ông Viện trưởng "Viện văn học Việt Nam" và Chủ tịch HNVVN lúc đó, rằng: 
        " Đánh giá về Tuyển Thơ Chọn Lọc? Với nhận thức bản thân, tôi tin chắc chắn rằng: Trong dãy thi sơn có nhiều ngọn, tôi đã lên đến điểm đỉnh một ngọn "Hy-ma-lay-a" kỳ vĩ !... Nhất là thơ tình, của thi ca hiện đại Việt Nam ".
      Và:
      "...Trong văn hiến nghìn năm Thăng Long của nước nhà, nếu nền thơ cổ Việt Nam đã có một Nguyễn Du - Thì thơ ca hiện đại Việt Nam cũng có Phạm Ngọc Thái - Tôi tin chắc như vậy! "
                           Quan san muôn dặm sơn hà
                     Nguyễn Du người trước, tôi là người sau
                     Hôm nay rỏ chút lệ sầu
                     Thương Người rồi lại chạnh đau phận mình
                     ....    
                     Người Đường Cổ - Tôi Tân Thơ
                     Ngàn năm văn hiến xin thưa cùng Người.
                                      (trích bài "Ta khóc cho ta" của PNT)  
 
     XIN KẾT LUẬN:  Trong ngàn năm văn hiến Thăng Long, chưa có thi nhân nào để lại được cho nền thi ca của nước nhà, một Tuyển Thơ tầm vóc cao và hay như thế !? Trừ Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du.
      Tất cả đã được Tổ chức văn chương ở Thủ đô chúng tôi chọn lựa, biên soạn để in vào trong "Tuyển thi văn" có tầm vóc đồ sộ:
                 MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC 
     Tuyển sách dầy trên 400 trang xuất bản với 100 áng thi tiêu biểu trong đời thi nhân, 46 bài bình thơ đặc sắc, thơ hay và tiểu luận chân dung. Hiện nay "Tuyển thi văn" vô giá đó cũng được chúng tôi cho đăng trọn vẹn trên Web. Việt Nam Thư Quán ở Mỹ !!!    
     Mời các nhà nghiên cứu văn học cùng bạn đọc trong nước và hải ngoại, mở link sau thưởng lãm:
                         http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=897650
 
 
               NÓI THÊM VỀ TẬP THƠ CHA KHÓC CON
      Do một nỗi đau đột ngột đến với cuộc đời - Ngày 22.7.2019 đứa con trai yêu quí của thi nhân mới 27 tuổi xuân bất ngờ bị đột quị -  Lòng người cha đau đớn, tưởng như không còn đủ sức chịu đựng nữa. Trong cơn quằn quại đau thương, những dòng thơ, trang thơ khóc con được viết bằng máu và nước mắt của một người cha thi nhân kiệt xuất ấy, đã trào ra... 
     Và... Phạm Ngọc Thái đã để lại cho nền văn học nước nhà một "tập thơ khóc" vào hàng hay-hiếm-độc-lạ - Đó chính là tập thơ (45 bài) "cha khóc con", Nxb Hồng Đức 2020. Có thể nói đó là một "Tuyệt phẩm thơ khóc" vô giá, có một không hai của cả nền thi ca xưa nay trong ngàn năm văn hiến Thăng Long. 
 
       B.  NHẤN MẠNH CÁC TÁC PHẨM TRONG SỰ NGHIỆP VĂN HỌC
      Nói về sự nghiệp văn học của Phạm Ngọc Thái - Trong ba mươi năm vừa công tác và lăn lộn cuộc sống mưu sinh, vừa lao mình vào sáng tác. Đến nay, anh đã cho ra đời gần hai mươi tác phẩm các loại:
-  11 tác phẩm thơ và bình luận văn học
-   Hai tiểu thuyết:
    *  Cuộc chiến Hà Nội 12 ngày đêm
    *  Chiến tranh và tình yêu - Bộ tiểu thuyết hai tập, có tính lịch sử của cả cuộc chiến tranh đánh Mỹ của dân tộc.
-   5 vở kịch nói sân khấu: Hai dài ba ngắn.
      Ở lĩnh vực nào Phạm Ngọc Thái cũng đạt được tác phẩm có tầm vóc.
-  Năm 2014 anh cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái chân dung nhà thơ lớn thời đại": Tác phẩm dầy 372 trang với 120 bài thơ tình, 34 bài tiểu luận của các tác giả là những văn nghệ sĩ và nhà giáo bình thơ đặc sắc và hay cùng chân dung.
-  Đến 2019 nhà thơ lại cho ra đời tập "Phạm Ngọc Thái cánh đại bàng của thi ca đương đại Việt Nam", Nxb Thanh niên.



      Bình luận về hai thi phẩm có tầm vóc này, Nguyễn Thị Hoàng tôi đã nhận định:
      " Tập Nhà Thơ Lớn của anh ra đời đã bảy năm, giữa văn đàn của Thủ đô ngàn năm Văn Việt - Đến nay vẫn hiên ngang phát quang trong đương đại. Ngày càng được khẳng định chân giá trị của tác phẩm.
     ... Qua tháng năm, con đại bàng thi ca Phạm Ngọc Thái vẫn tung cánh bay, ngày càng cao, càng bay xa !? ".
     Và nhấn mạnh:
    " Phạm Ngọc Thái đơn thương độc mã, không ô lọng che dù, không người nâng đỡ - Người chiến binh đã qua cả một giai đoạn dài cuộc chiến tranh xưa? Giờ trên con đường thiên lý của sự nghiệp thi ca, con chiến mã lại từng bước, từng bước... rồi phi lên tận đỉnh ngọn thi sơn của thi ca hiện đại Việt Nam".
                      ( trích tiểu luận "Tập 64 BÀI THƠ HAY
                    và sự nghiệp thi ca Phạm Ngọc Thái" -  Nguyễn Thị Hoàng )
 
                             C.  NHÀ THƠ CCB TÀI NĂNG
            CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ANH HÙNG
         Thi nhân Phạm Ngọc Thái là một CCB từng chiến đấu cả chục năm trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ, qua các Trung đoàn 209, Sư 312 - Trung đoàn pháo 40 Tây Nguyên - Trung đoàn 48, Sư 320... Theo trọn cuộc chiến tranh đánh Mỹ của dân tộc, đến tận ngày 30.4.1975 giải phóng Sài Gòn, Mỹ rút về nước. Anh thuộc lớp sinh viên, trí thức yêu nước của những năm sáu mươi thế kỷ trước. Tự nguyện từ bỏ mái trường đại học, theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc lên đường cầm súng ra chiến trường đánh giặc. 
    Ngót mười năm chiến trận: Nhà thơ cựu chiến binh Phạm Ngọc Thái đã ba lần bị thương, ba lần đổ máu. Anh được tặng thưởng 5 huân chương chiến công và kháng chiến, danh hiệu dũng sĩ cùng nhiều hình thức khen thưởng.
 
          Kính thưa Quốc hội và Chính phủ Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
      Chúng tôi biết Trung ương đang tập trung hết sức trong công cuộc phòng chống đại dịch covid-19, cứu dân. Song, chúng tôi gửi cốt để thông báo cho Quốc hội và Chính phủ biết rằng: 
 -  Nền thi ca hiện đại của ngàn năm văn hiến Thăng Long chúng ta hôm nay, đã có Đại Thi Hào  !!! 
      Đại thi hào Phạm Ngọc Thái lại là một cựu quân nhân của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Anh đã cống hiến cả tuổi trẻ và máu xương mình cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc ! Thi nhân xứng đáng được nhà nước và Chính phủ quan tâm - Hơn nữa, anh còn mang đến cho nền văn học hiện đại của Việt Nam chúng ta hôm nay, niềm tự hào đối với cả nhân loại này.
 
                                     Viết tai Thủ đô của ngàn năm Thăng Long
                                                             9.2021
                                                    Nguyễn Thị Hoàng
          
<bài viết được chỉnh sửa lúc 14.09.2021 12:22:43 bởi Nhân văn >
nhanvan

Nhân văn
  • Số bài : 996
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.12.2007
Re:MINH CHỨNG VỀ CHÂN DUNG MỘT THI HÀO DÂN TỘC - 16.09.2021 18:04:21
 
 
              PHẠM NGỌC THÁI VÀ BẨY BÀI THƠ TÌNH TUYỆT HAY
                                               . Thuộc trong ngàn năm văn hiến Thăng Long
 
                                               Nguyễn Thị Xuân
                                                     GV Trường THPT Ba Đình, Hà Nội
 

            Cô giáo Nguyễn Thị Xuân
      Nhà giáo Nguyễn Thị Hoàng – Nguyên GV Trường ĐH Sư phạm từng bình luận:
      “ Thơ hay bậc nhất của ngàn năm văn hiến Thăng Long phải là loại thơ có khả năng sống trường cửu, tồn tại muôn đời, thơ của mọi thời đại - Đó là loại thơ có hàng đẳng cấp cao nhất.
       Không kể Kiều bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du, thuộc thể loại tiểu thuyết thơ - Những bài thơ ngắn tuyệt hay lưu trong thi đàn Thăng Long, như: 
       Đèo ngang của BHTQ  /   Làm lẽ, Cảnh thu - Hồ Xuân Hương  /  Thương vợ - Tú Xương  /  Thu điếu - Nguyễn Khuyến  /  Tràng Giang - Huy Cận  /  Tranh lõa thể - Bích Khê  /  Tương tư - Nguyễn Bính  /  Đây thôn Vỹ Dạ;  Mùa xuân chín;  Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử  /  Hai sắc hoa ti-gôn - TTKH.  /  Thuyền và biển - Xuân Quỳnh  /... “.   
       Trong thi đàn Việt xưa nay, chưa từng có thi nhân nào viết được nhiều thơ tình hay như Phạm Ngọc Thái. Những bài đạt độ viên mãn về cả ý tưởng, ngôn ngữ nghệ thuật thi ca và tính nhân văn là rất nhiều. Mỗi bài hay ở góc độ khác nhưng đều cảm hóa được trái tim người yêu thơ! Kể ra cũng phải có tới vài chục bài thơ tình hay vào hàng tiêu biểu…     
      Ở đây, tôi chỉ nói về những bài thơ tình hay hàng đỉnh của thi nhân, tương đương với những tuyệt phẩm của ngàn năm văn hiến Thăng Long đã nêu trên:
 
         PHẠM NGỌC THÁI CÓ BẨY BÀI THƠ TÌNH  
                    HAY HÀNG TUYỆT PHẨM THI CA 

 
1.           EM VỀ BIỂN
                       Quê em thành phố biển

Em về biển để vùi vào trong cát
Nỗi buồn nước mắt
Những nát tan vòm ngực đã thương đau.

Biển cứ vỗ tan... nát tình biển cả...
Xô mãi bờ với lá thông reo
Người thiếu nữ ấy dần thành cát trắng
Mang nỗi niềm, không biết đã đi đâu?

“Bờ bãi đời người” - Cuộc sống tình yêu
Trái tim nhỏ, em dựng cả toà-sen chân Phật Tổ!
Ta cũng thể loài cua còng trong bể cả
Yêu thương nhiều hưởng đã bao nhiêu

Tháng năm trôi, tình cũ cháy như khêu...
Dòng suối thần tiên nuôi đời ta mục ải
Đôi gót đỏ, ánh mắt nhìn thơ dại
Đã thổi thành bão tố ở trong anh

Hàng bạch đàn năm xưa còn đó
Anh còn đây. Em hỡi, anh còn đây!
Nhớ những buổi đón em, bên cổng trường sinh ngữ
Tóc nửa bạc rồi. Chỉ thấy gió mưa bay...

Tóc nửa bạc rồi. Tình vẫn đó, em ơi!


 
2.       VÁY THIẾU NỮ BAY
 
                   Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
                  Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên
                                                Nguyễn Du
                                           
Váy thiếu nữ bay để ngỏ
Một khoảng trời nghiêng ngửa bên trong
Gió réo rắt, nắng bồn chồn hơi thở
Tìm vào cung cấm của em

“Bờ bãi con người” em trổ hoa trái ngọt
Đến đế vương cũng khum gối cầu mong
Váy thiếu nữ bay lộ một lâu đài, điện ngọc
Nơi sự sống nhân quần tiến hoá muôn năm

Váy thiếu nữ bay mang cả hồn thời đại
Mênh mông bầu trời, say đắm thế gian
Có phải đó khúc quân hành nhân loại
Em giữ trong mình nguyên thuỷ lẫn văn minh

Váy thiếu nữ bay để thấy đời còn có lý!
Sự sống anh cùng nhân thế tồn sinh
Dù dung tục vẫn thánh tiên bậc nhất
Khởi điểm cho các luồng chính trị toả hào quang.
 
 
3.            NHÌN TRĂNG NHỚ EM
                               Tặng Ánh Tuyết 
 
Nhìn mảnh trăng trời lại nhớ em
Trăng trôi miên man khi mờ, khi tỏ
Chúng mình đến với nhau, không còn thơ bé
Nhưng lòng tha thiết yêu thương
 
Trăng giữa tháng khuyết dần, tình cứ tràn dâng
Cả tới khi không còn trăng nữa
Thì em vẫn bên vành vạnh tỏ
Đưa anh vào giấc mộng ru đêm
 
Để cùng nhau say cảnh thần tiên
Cho quên hết biển đời ngang trái
Cuộc sống mưu sinh với bao mệt mỏi
Chân trời sẽ lụi tàn nếu chẳng có tình em
 
Ôi, mảnh trăng nhỏ bé giữa mênh mang
Vẫn soi ngập cõi không gian vô tận
Sâu tận cùng trái tim anh hưng phấn
Đêm nằm thao thức vấn vương
 
Thần thánh hiện hình trong một mảnh trăng em
Dìu anh qua phong ba, bão táp
Giữa giấc ngủ chập chờn đêm bất diệt
Anh bay về ôm lấy em thương
 
Áp môi hôn lên vầng nguyệt của Cưng
Nghe trái đất dưới thân mình rung chuyển
Thế thái nhân tình dẫu bao đổi biến
Chẳng đảng phái nào sánh được hơn
 
Cả nhân thế này chỉ một "mảnh trăng con"
Sống mãi muôn đời dù thay bao chủ nghĩa
Thức nhớ em hoài, trăng khuất không biết nữa
Nhìn khắp thiên hà càng da diết yêu thêm.
 
 
4.        SÁNG THU VÀNG
                      Nhớ ngày gặp lại em bên hồ gió
                             (Kỷ niệm Bích Đào)
 
Gặp lại em một sáng thu vàng
Nơi em đứng nắng tràn ngoài phố
Với trời xanh, hồ xanh gió
Gió đưa làn tóc em bay...                       
 
Sáng thu này trĩu cả hàng cây
Đô thành dịu mát
Ông lão ngồi bên gốc cây,
                bán những cây sáo trúc thổi vói lên trời
Bà xúc tép váy khều khào nước
 
Một thời xa lắc
Em nghiêng chao về một thời xa

Người con gái đã thành chính quả!
(phảng phất trên đầu đôi nét phôi pha)
Đôi mắt em, bóng trúc bay xoà...
Đường phúc hậu, vầng trăng đầy nở...
Nghe không gian đổ vỡ cả mùa thu!

Sáng thu vàng mông mênh, mênh mông
Anh đứng trông em bên bờ sóng vỗ
Hồn đã mất trong rừng hoang thiếu nữ
Và trái tim cũng không còn

Sáng thu vàng xang xênh, xênh xang
Những con đường xưa tắm hơi em
Môi em cười... hoa lá nát đau thêm
Thời gian trôi, cuộc sống buồn tênh

Một mùa thu lá lá
Nơi ấy giờ chỉ còn có cỏ
Bướm vàng hoa cũ vẫn bay ngang
Người đàn bà, em nuốt mùa thu tan…



  
5.       ANH ĐỨNG NHÌN THEO
                BÓNG CHIM CÂU
                           . Tặng người nữ sinh của thời yêu
 
Mấy chục năm rồi, em ở đâu?
Ơi, người con gái của thời yêu
Chiều nay thành phố trong mưa lạnh
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu
 
Kìa! Dáng hình xưa lại hiện về
Gót thon bước nhẹ dưới đường quê
Gió bay mái tóc hương thơm ngát
Để cả trời xanh phải đê mê
 
Tiếng hát ai đưa vọng bên hồ
Đã xa năm tháng hãy còn mơ
Mắt em thăm thẳm soi làn nước
Tận đáy hồn anh cứ ngẩn ngơ
 
Chiều nay mà ngỡ buổi chiều nao
Vẫn đến trường em lối cổng vào
Đón cô thiếu nữ xinh xẻo ấy
Chạy đến bên anh tủm tỉm chào
 
Thôi thế, hết rồi - Bé yêu ơi!
Bụi cát lầm lên phủ cuộc đời
Giá em mãi tuổi đôi mươi nhỉ
Và anh cũng đừng vội già người
 
Mấy chục năm trời, em ở đâu?
Anh đứng nhìn theo bóng chim câu…
 
 
6.     NGƯỜI ĐÀN BÀ TRẮNG       
 
                         Người đàn bà đi trong mưa rơi
                         Chứa một trời thầm như hoa vậy...
                                     Tặng Bích Đào
 
Chiếc mũ trắng mềm, em đội bầu trời
Khóm mây trắng bay, nghiêng trôi trên tóc
Đôi mắt em đong những áng mây
Người đàn bà trắng!
 
Em đi, về... chao những hàng cây
Hồ gió thổi lệch vành mũ đội
Thấm đẫm mình em cả thềm nắng gội
Xoã ngang vai mái hất tơi bời
 
Nỗi niềm thao thức
Những đêm trăng nước...
Chùm trinh em hát: Đấy chỗ thiên thai!
Người đàn bà ai mà định nghĩa?
 
Đường xưa đó về đây, em ơi!
Những con đường đã đầy xác lá rơi
Xác ve, xác gió và xác của mưa.
 
Em không biến thành đá để hoá Vọng Phu
Anh cũng không làm chàng Trương Chi,
                                    suốt đời chèo sông vắng
Ta không đi theo Con Đường Lông Ngỗng Trắng
Dẫu hình hài khắc mãi tim nhau
 
Vết thương lòng không dễ đã lành đâu
Những đêm sao buồn, những đêm gió khát
Khúc thơ tình anh lại viết về em
Người đàn bà ngậm cả vầng trăng...
 
 
7.                ANH VẪN VỀ
      THEO DÒNG LỆ EM TIẾC NUỐI
                                          
Em nói với tôi rằng: “Muốn có một đứa con…”
Dù xa cách nhớ nhau trong hoài niệm
Năm tháng dáng hình em hiển hiện
Phía chân trời thắp sáng lửa tim tôi!
 
Người thục nữ tôi yêu, những năm cuối cuộc đời
Cho tới lúc nấm mồ anh xanh cỏ
Em hãy thắp nén hương lòng tưởng nhớ
Để hồn anh siêu thoát dưới trời âm
 
Gặp em muộn rồi, bóng xế hoàng hôn
Tóc cũng bạc đôi phần, dẫu tim còn khao khát
Ngày anh khuất chắc làm em thổn thức
Nước mắt tràn trên nấm mộ thương yêu
 
Thì đời này, em ạ! Có trớ trêu
Nhưng ta đã bên nhau sưởi ấm mùa đông rét
Anh hôn lên đôi môi em như một vầng trăng khuyết
Thấy cả bầu trời du ngoạn cõi hồn xanh
 
Lại bùng cháy trong thơ ngọn lửa trái tim
Ngọn lửa của tình yêu vĩnh diệt
Em đừng khóc cho lòng anh thêm tan nát
Có rời chốn dương trần, anh không chết đâu em!
 
Chỉ hóa kiếp mình, tiếp cuộc trường sinh
Cùng thi ca, anh sẽ sống muôn đời trong nhân thế
Vẫn khắc khoải quanh nàng vào nỗi nhớ
Với mối tình nồng thắm của em yêu
 
Nếu giây phút nào, em lạc bến cô liêu
Giọt lệ thơ rơi nhòa trang giấy trắng
Hãy tìm đến nấm mồ anh, miền xa vắng
Rồi âm thầm một chút khóc cho nhau
 
Anh thương em đời gặp cảnh bèo dâu
Em nhớ về anh sống kiếp chàng du mục
Thời trai trẻ phong trần, qua chiến tranh loạn lạc
Cả cuộc đời chỉ ham thích thơ văn
 
Anh tìm đến em, lúc đã tàn úa mái đầu xanh
Yêu tha thiết mà cách ngăn thế giới
Anh vẫn về theo dòng lệ em tiếc nuối
Và yên lòng nơi nấm mộ ngàn thu.
 
                                                Hà Nội, mùa thu 2021
                                                     Nguyễn Thị Xuân

 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.10.2022 19:22:54 bởi Nhân văn >
nhanvan

Thay đổi trang: < 123 > | Trang 2 của 3 trang, bài viết từ 31 đến 60 trên tổng số 63 bài trong đề mục