Luật Làm Thơ

Tác giả Bài
Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 22.02.2006 21:44:06
0
Kính mời Quí Vị & ACE yêu Thơ xem để tìm hiểu thêm...

Luật Làm Thơ


http://www.diendansaigon.net/

7_NN_vdn - Sưu tầm trên DiễnĐàn SàiGòn

CHÚ Ý: ĐÂY LÀ BÀI POST CỦA UTTHUONG TRONG DD ANHVAEM.NET.
LỜI ĐỌC THẤY Ý NGHĨA, MUỐN CHIA SẺ CÙNG MỌI NGƯỜI. AI QUAN TÂM XIN HÃY ĐỌC ĐỂ RÚT RA BÀI HỌC CHO MÌNH


Thơ Lục Bát

Lục bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách gieo vần tương đối đơn giản.

Lục = sáu chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng
Bát = tám chữ --- chữ 2 bằng, 4 trắc, 6 bằng, 8 bằng

x B x T x B (v1)
x B x T x B (v1) x B (v2)
x B x T x B (v2)
x B x T x B (v2) x B (v3)

Thơ Thất Ngôn (hay còn gọi Tứ Tuyệt)

Thất ngôn đơn giản là thể thơ gồm bốn câu mỗi đoạn, và mỗi câu được mang bảy chữ, được sắp theo luật như sau:

Bốn câu được chia thành hai cặp:
Một cặp mang thanh x T x B x T x (trắc, bằng, trắc)
Một cặp mang thanh x B x T x B x (bằng, trắc, bằng)

Hai cặp này có thể đặt xen kẽ, hoặc đối xứng tùy ý, miễn sao nghe êm tai là được. Trong từng câu, những chữ mang thanh trắc bằng bắt buộc phải là các chữ 2, 4, và 6 của mỗi câu. Như vậy chữ thứ 2 và thứ 6 luôn mang cùng một thanh còn chữ thứ 4 thì ngược lại theo đúng luật thơ.

Thơ Bát Ngôn (thơ 8 chữ)

Bát Ngôn là thể thơ tám chữ, tức là mỗi dòng trong đoạn thơ sẽ có tám chữ. Làm thơ Bát ngôn dễ dàng hơn những thể thơ khác rất nhiều vì không bị luật thơ gò bó như những thể loại khác:

Câu đầu tiên của bài thơ thì có thể tự do mà làm, vì không phải theo khuôn khổ nào hết.

Câu hai và ba thì chữ cuối của câu hai và câu ba phải theo cùng vần là trắc trắc, hoặc bằng bằng, cứ hai cặp trắc lại đến hai cặp bằng cho đến hết bài thơ.

Câu cuối cùng cũng tương tự câu đầu. không cần phải vần với câu nào hết, nhưng nếu chữ cuối của câu cuối có thể vần với chữ cuối câu đầu thì sẽ hay hơn.

Vì Bát ngôn không có quá gò bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn, chỉ cần uốn nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.

Thơ Tứ Ngôn (thơ 4 chữ)

Thơ tứ ngôn là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi vì luật bằng trắc chỉ được áp dụng cho chữ thứ 2 và chữ thứ 4 trong câu mà thôi.

Nếu chữ thứ 2 là bằng thì chữ thứ 4 là trắc và ngược lại nếu chữ thứ 2 là trắc thì chữ thư 4 là bằng.

Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần tiếp, và cách gieo vần tréo. Tuy nhiên vẫn còn một cách gieo vần nữa, cách này ít ai dùng đến, là cách gieo vần ba tiếng.

Cách gieo vần tiếp
x B x T (v1)
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x T x B (v2)

Cách gieo vần tréo
x B x T (v1)
x T x B (v2)
x B x T (v1)
x T x B (v2)

Cách gieo vần ba tiếng
x B x T (v1)
x T x B (v1)
x B x T (tự do)
x T x B (v2)

Thơ Ngũ Ngôn (thơ 5 chữ)

Cũng giống như thơ 4 chữ, nếu chữ thứ 2 trong câu là bằng thì chữ thứ 4 là trắc và ngược lại. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo.

Cách gieo vần ôm
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v2)
x T x B x (v1)

Cách gieo vần tréo
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)
x B x T x (v1)
x T x B x (v2)


Thơ Đường

Thơ Đường được bắt đầu từ bên Trung Hoa, thời nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong triều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thơ nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là thơ Đường.

Thơ Đường còn được gọi là "Đường Thi Thất Ngôn Bát Cú" tạm dịch là Đường thơ bảy chữ tám câu. Tám câu này được phân ra thành bốn cặp (cặp là hai câu giống nhau theo luật bằng trắc).

cặp 1: gồm câu một và câu tám
cặp 2: gồm câu hai và câu ba
cặp 3: gồm câu bốn và câu năm
cặp 4: gồm câu sáu và câu bảy

Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu; đặc biệt, những chữ 7 (chữ cuối của mỗi câu) cũng phải theo luật bằng-trắc (b=bằng, t=trắc).

Nếu mở đầu bài thơ bằng T B T (luật trắc) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x T x B x T b (vần)
câu 2: x B x T x B b (vần)
câu 3: x B x T x B t
câu 4: x T x B x T b (vần)
câu 5: x T x B x T t
câu 6: x B x T x B b (vần)
câu 7: x B x T x B t
câu 8: x T x B x T b (vần)

Nếu mở đầu bài thơ bằng B T B (luật bằng) thì bài thơ sẽ theo luật như sau:

câu 1: x B x T x B b (vần)
câu 2: x T x B x T b (vần)
câu 3: x T x B x T t
câu 4: x B x T x B b (vần)
câu 5: x B x T x B t
câu 6: x T x B x T b (vần)
câu 7: x T x B x T t
câu 8: x B x T x B b (vần)

Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu THỰC và hai câu năm và câu sáu là hai câu LUẬN.... hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, danh từ (noun) đối danh từ, động từ (verb) đối động từ, tính từ (adjective) đối tính từ, quan trọng hơn cả là hai cặp câu này phải Ý đối Ý.

Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể HỌA THƠ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những mang VẦN của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên (thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.
(ST)

Note:
Chủ ý để viết nên 1 bài thơ là để diễn tả cảm xúc, dùng từ ngữ mà diễn đạt tâm ý của người làm thơ, nhiều khi quá gò bó trong luật thơ có thể sẽ mất đi cái hứng làm thơ, vì vậy, nếu bài thơ khi đọc lên nghe êm dịu, xuôi tai, diễn tả được ý tứ và cảm xúc của tác giả thì không cần theo đúng luật thơ cũng có thể là 1 bài thơ hay phải không các bạn.

UTTHUONG
<bài viết được chỉnh sửa lúc 19.02.2009 19:09:37 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 24.02.2006 00:56:24
0
CÒN BÀI NÀY LÀ DO HOAMOCLAN....


Các thể loại thơ thông thường: Thể Lục Bát, Biến Thể Lục Bát, Thể Song Thất Lục Bát, Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Cũ), Thể Thất Ngôn/Bảy Chữ (Thơ Mới), và Thể Thơ Tám Chữ.


Thể Lục Bát

Thơ Lục Bát, còn được gọi là thơ "Sáu Tám", vì câu đi trước có 6 chữ, còn câu đi sau có 8 chữ. Cứ thế mà lập lại hoài cho tới khi nào tác giả muốn ngưng bài thơ. Thông thường, bài thơ Lục Bát dừng lại ở câu 8.

1. Cách Gieo Vần-Chữ cuối của câu trên (tức câu 6) phải vần với chữ thứ sáu của câu dưới (tức câu 8). Cứ mỗi hai câu thì đổi vần, và bao giờ cũng gieo vần bằng (còn gọi là bằng hoặc bình, tức có dấu huyền hoặc không dấu). Ký hiệu của bằng là B. Ðặc biệt chữ thứ tư của câu 6 và câu 8 và chữ thứ bảy của câu 8 luôn luôn được gieo ở vần trắc hay trắc (tức có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, hoặc dấu nặng). Ký hiệu của trắc là T. Chữ thứ sáu của câu 8 được gọi là yêu vận (vần lưng chừng câu), và chữ thứ 8 của câu tám được gọi là cước vận (vần cuối câu). Vận hay vần là tiếng đồng thanh với nhau. Gieo vần thì phải hiệp vận (tức cho đúng vận của nó). Ví dụ: hòn, non, mòn, con... Nếu gieo vần mưa với mây thì bị lạc vận. Còn nếu gieo vần không hiệp với nhau thì gọi là cưỡng vận. Ví dụ: tin đi với tiên.

2. Luật Bằng Trắc-Cách dùng mẫu tự và viết tắt như sau: B là Bằng, T là Trắc, V là Vần.

Câu 6: B B T T B B
Câu 8: B B T T B B T B

Ví dụ:
Câu 6: Trăm năm | trong cõi | người ta
Câu 8: Chữ tài | chữ mệnh | khéo là | ghét nhau
Câu 6: Trải qua | một cuộc | bể dâu
Câu 8: Những điều | trông thấy | mà đau | đớn lòng
(Kiều)

Ghi chú: Chữ là và đau là yêu vận (tức là vần đặt ở trong câu); chữ nhau và lòng là cước vận (tức là vần đặt ở cuối câu). Chữ thứ 6 của câu 6 (ta) hiệp vận (V) với chữ thứ 6 của câu 8 (là), chữ thứ 8 (nhau) của câu 8 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (dâu) của câu 6, chữ thứ 6 (dâu) của câu 6 hiệp vận (V) với chữ thứ 6 (đau) của câu 8.

Biệt lệ-Tuy luật bằng trắc đã qui định như ở trên, nhưng những chữ thứ 1, thứ 3 và thứ 5 nếu không theo đúng luật thì cũng không sao. Cái biệt lệ ấy được gọi là "nhất, tam, ngũ bất luận", có nghĩa là chữ thứ 1, chữ thứ 3 và chữ thứ 5 không kể (bất luận), tức không nhất thiết phải theo đúng luật. Còn các chữ thứ 2, chữ thứ 4, và chữ thứ 6 bắt buộc phải theo đúng luật (phân minh), do câu "nhì, tứ, lục phân minh".
Ví dụ:
Trăm năm trong cõi người ta (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 3 (trong) đáng lẽ thuộc vần Trắc, nhưng lại đổi thành vần Bằng).
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (Kiều)
(Ghi chú: chữ thứ 1 (Chữ) và thứ 5 (khéo) đáng lẽ thuộc vần Bằng, nhưng lại đổi thành vần Trắc).

3. Thanh-Thanh gồm có Trầm Bình Thanh và Phù Bình Thanh. Trầm Bình Thanh là những tiếng hay chữ có dấu huyền. Ví dụ: là, lòng, phòng... Phù Bình Thanh là những tiếng hay chữ không có dấu. Ví dụ: nhau, đau, mau... Trong câu 8, hai chữ thứ 6 và thứ 8 luôn luôn ở vần Bằng, nhưng không được có cùng một thanh. Có như thế, âm điệu mới êm ái và dễ nghe. Nếu chữ thứ 6 thuộc Phù Bình Thanh thì chữ thứ 8 phải thuộc Trầm Bình Thanh, và ngược lại.
Ví dụ:
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.
(Ghi chú: là thuộc Trầm Bình Thanh, nhau thuộc Phù Bình Thanh).
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
(Ghi chú: đau thuộc Phù Bình Thanh, lòng thuộc Trầm Bình Thanh).

4. Phá Luật-Thỉnh thoảng chúng ta bắt gặp người làm thơ thích phá luật ở chữ thứ hai câu 6, thay vì vần bằng thì lại đổi ra vần trắc; còn chữ thứ tư thì có khi đổi thành vần bằng thay vì vần trắc như thường lệ. Câu 6 cũng được ngắt ra làm hai vế.
Ví dụ: Mai cốt cách | tuyết tinh thần (B T T T B
Mỗi người | một vẻ | mười phân | vẹn mười (T B T T B B T
(Kiều)
Ðau đớn thay | phận đàn bà (B T B T B
(Kiều)
Khi tựa gối | khi cúi đầu (B T T B T
(Kiều)
Ðồ tế nhuyễn | của riêng tây (B T T T B
Sạch sành sanh vét | cho đầy túi tham (T B B T B B T
(Kiều)

Biến Thể Lục Bát
Biến Thể Lục Bát là thể văn biến đổi ở cách gieo vần.

Ví dụ:
Câu 6: Vừa ra đến chợ một khi
Câu 8: Thấy rồng che phủ tứ vi một người
Câu 6: Nguyên nàng số lý nghề nòi
Câu 8: Dưới đất trên trời thuộc hết mọi phương (T T B B T T B
(Truyện Lý Công )
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (trời) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (nòi) của câu 6.
Hoặc:
Câu 6: Khoan khoan chân bước bên đường
Câu 8: Thấy chàng họ Lý ngồi đương ăn mày
Câu 6: Ðầu thời đội nón cỏ may
Câu 8: Mặt võ mình gầy cầm sách giờ lâu (T T B B B T B
(Truyện Lý Công)
Chú thích: Câu tám thứ hai vừa phá luật vừa biến thể. Chữ thứ tư (gầy) của câu 8 lại vần với chữ thứ sáu (may) của câu 6.

Trên đây là một số niêm luật căn bản của thơ Lục Bát. Làm thơ Lục Bát tuy dễ mà khó. Cái khó là ở cách gieo vần, làm sao đừng cho bị lạc vận hoặc cưỡng vận. Một bài thơ hay mà bị lạc vận hoặc cưỡng vận thì sẽ làm hỏng cả bài thơ, cũng giống như một con sâu làm hỏng cả nồi canh ngon vậy!

Người viết sẽ nêu một vài ví dụ điển hình để bạn thấy những khuyết điểm nho nhỏ mà người làm thơ không để ý tới, có thể vì chưa nắm vững niêm luật hoặc cũng có thể vì coi thường niêm luật. Sự không hiệp vận ấy gọi là cưỡng vận hay ép vận (tin đi với tiên) và lạc vận (mưa đi với mây).
(Ghi Chú: Về Vần hay Vận, xin xem một bài viết riêng về Thanh, Bằng Trắc và Vần của cùng tác giả sẽ cống hiến các bạn trong một dịp khác.)

Ví dụ:
Nhớ xuân lửa đạn rừng đồi
Nhớ đêm không ngủ cuối trời Việt Nam
Bây giờ mượn chút thời gian
Chia cho hiện tại để làm quà Xuân
Chú thích:
đồi đi với trời là Cưỡng vận (đồi với trời thuộc Vần Thông,1 chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).
Nam đi với gian là Lạc vận (Nam và gian không thuộc Vần Chính 2 và Vần Thông).
gian đi với làm là Lạc vận (gian và làm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Nhớ mi quầng biệt Quỳnh Côi
Nhớ hương bồ kết nhớ người mẹ quê
Chú thích:
Côi đi với người là Lạc vận (Côi và người không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Nhớ em phụng phịu: trời mưa
Giao thừa chẳng được vui đùa với nhau
Chú thích:
Mưa đi với đùa là Cưỡng vận (mưa và đùa thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).

Có người hôm ấy chải đầu
Vô tình tóc cứ bay vào vai ta
Chú thích:
đầu đi với vào là Lạc vận (đầu và vào không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Ly cà phê Mỹ nhạt hơn
Nhưng đầy chất đắng trong hồn tha hương
Chú thích:
hơn đi với hồn là Cưỡng vận (hơn và hồn thuộc Vần Thông, chỉ hợp về Thanh chứ không hợp về Âm).

Vẫn không gian ấy bão bùng
Hay mồ hôi tưới trên thung lũng cằn
Bây giờ ngồi giữa thế gian
So giây ướm thử mấy gam giao mùa

Chú thích:
cằn đi với gian là Lạc vận (cằn và gian không thuộc Vần Chính và Vần Thông).
gian đi với gam là Lạc vận (gian và gam không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Gió thơm từ thuở hoàng hôn
Theo chân ánh sáng về ôm ngang trời
Chú thích:
hôn đi với ôm là Lạc vận (hôn và ôm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

Rừng Xuân hoa lá êm đềm
Có người thơ thẩn đi tìm phong lan
Chú thích:
đềm đi với tìm là Lạc vận (đềm và tìm không thuộc Vần Chính và Vần Thông).

1 Vần Thông là những vần chỉ hợp nhau về thanh, còn âm thì tương tự chớ không hợp hẳn.
2 Vần Chính là những vần mà cả thanh lẫn âm đều hợp nhau.
----------------------------------------------------------------------------------
Sưu tầm từ: http://www.aulacfoundation.org/tho_luc_bat.htm#totop
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.02.2006 04:23:15 bởi Viet duong nhan >

Ct.Ly

Ct.Ly

Ct.Ly

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 24.02.2006 04:12:03
0
Cảm ơn Ly nhiều đã post bài "Luật Làm Thơ" trong Mục "Thơ sáng tác".[sm=kissing.gif][sm=kissing.gif]

Đuyên Hồng
  • Số bài : 2205
  • Điểm: 10
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.04.2006
  • Nơi: Trái Tim
RE: Luật Làm Thơ - 08.04.2006 18:52:41
0
Tôi nghĩ rằng nhiều khi Thơ phải phá luật một ít thì mới đỡ nhàm chán. Thơ cũng như cuộc sống cần phải có cái mới.
Xin được chỉ giáo!

Huyền Băng
  • Số bài : 3826
  • Điểm: 11
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.09.2005
  • Nơi: rừng thu 1953
RE: Luật Làm Thơ - 08.04.2006 19:07:46
0
Chào Đuyên Hồng,

Như ở trên đã ghi, luật làm thơ : lục bát, song thất lục bát, thơ đường, tứ tuyệt...thi nhân có thể biểu diễn cái tài nghệ văn chương của mình qua những khuôn khổ thơ trên mà ý tứ vẫn dồi dào, lời lẽ vẫn bay bướm, đó là cái hay của thi nhân.
Nếu bạn không muốn vào khuôn sáo trên thì bạn có quyền làm thơ tự do, nhưng cũng như đã đề cập ở những phần chú ý, thơ thì phải có vần nếu không thì thành văn xuôi mất.
Tùy bạn chọn nhé!
Chúc bạn vui với vnthuquán,

HB
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.04.2006 19:23:26 bởi Huyền Băng >

TTL
  • Số bài : 1353
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 22.02.2005
RE: Luật Làm Thơ - 08.04.2006 19:45:14
0


Trích đoạn: Đuyên Hồng

Tôi nghĩ rằng nhiều khi Thơ phải phá luật một ít thì mới đỡ nhàm chán. Thơ cũng như cuộc sống cần phải có cái mới.
Xin được chỉ giáo!


Chào Đuyên Hồng,

Mời vào đây xem,
http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=134693&mpage=2&key=�
Một số bạn hữu của VNTQ đang "bàn" về thơ đó. Nếu bạn có cao kiến thì xin đăng lên cho bằng hữu thưởng lãm.
Cám ơn và chúc bạn mọi việc vui vẻ khi dạo phố VNTQ.

Trân trọng,
ttl

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 20.04.2006 08:27:16
0
Luật Làm Thơ
VDN Sưu Tầm
http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=8


Phần I


Những Dạng Thơ Ðặc Biệt


1-Họa Vận

Một người làm một bài xướng lên,một người nữa làm bài khác họa lại mà các vần trong bài họa phải theo y như các vần trong bài xướng,còn ý nghĩa hoặc phụ theo cho rộng,hoặc trái hẳn lại ( phản đề ) :

Hỏi Ả Bán Chiếu

Xướng :
Ả ở đâu nay bán chiếu gon ?
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn ?
Xuân thu nay độ bao nhiêu tuổi ?
Ðã có chồng chưa được mấy con ?
Nguyễn Trãi

Họa :

Tôi ở Tây hồ bán chiế u gon .
Nỗi chi ông hỏi hết hay còn ?
Xuân thu tuổi mới trăng còn lẻ ,
Chồng còn chưa có,có chi con !

Nguyễn thị Lộ

2-Thủ nhất thanh ( nhất đồng )

Từ đứng đầu 8 câu đều giống nhau

Tám Mừng
Mừng đón xuân về,muôn sắc hoa,
Mừng xuân,xuân mới ,mới thêm ra.
Mừng nghe nhựa sống,như còn trẻ,
Mừng thấy đời tươi,chửa muốn già.
Mừng khỏe đôi chân,đi đứng vững,
Mừng tinh cặp mắt ngắm nhìn xa.
Mừng nhau tuổi Thọ tăng tăng mãi,
Mừng được trường xuân hưởng thái hòa.

1986 Lạc Nam

3-Song điệp

Tất cả 8 câu đều có 2 điệp từ :

Chuyện Ðời
Vất vất vơ vơ ,cũng nực cười,
Căm căm cúi cúi có hơn ai .
Nay còn chị chị anh anh đó ,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không,lo hết kiếp
Khôn khôn dại dại,chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ ăn ăn nói chuyện chơi.

Nguyễn Công Trứ ?
Nguyễn Thượng Hiền ?

4-Song điệp độc vận

Tất cả 8 câu đều có 1 từ và chỉ có 1 vần

Xuân Và Thơ

Xuân tự ngàn xưa, bạn với Thơ
Tình Xuân là cả vạn lời Thơ
Ðẹp duyên hoa bút, Xuân ngời sắc
Rộn khúc Xuân thiều, nhạc ánh Thơ.
Xuân vắng,oanh hờn,dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời Thơ
Xuân nương,thi sĩ,đôi người ngọc,
Dệt mộng ngày Xuân,lộng ý Thơ

Lạc Nam


5-Dĩ đề vi thủ


Lấy 8 từ đầu để mở đầu cho 8 câu thơ


Gửi Bạn

Nhất sinh tôi bác biết nhau rồi,
Ðịnh đoạt hơn thua phó mặc trời .
Chúng mải công danh , ky cóp chạy,
Ta nhìn mây nước nhẹ nhàng trôi.
Theo quan,ngán bấy câu chè lá !
Về xã ,buồn thay cảnh thịt xôi.
Lê gậy theo trăng vào quán trọ,
Ninh trà,nạp thuốc ,chuốc nhau chơi.

Quả Ngôn

Chú thích
Lê Ninh (. - 1886) hiệu là Mệnh Khang người Hà Tĩnh .Hợp
với quân Phan đình Phùng ở Hương Sỏn chống lại Pháp.


6-Dĩ đề vi vận

Lấy đầu đề làm vần

Không Chồng Trông Bông Lông

Xướng :

Bực gì bằng gái chực phòng không
Tơ tưởng vì chưng một tấm chồng,
Trên gác rồng mây ngao ngán nhẽ,
Bên trời cá nước ngẩn ngơ trông.
Mua vui lắm lúc cười cười gượng,
Giả dại nhiều khi nói nói bông.
Mới biết có chồng như có cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.

Nguyễn Khuyến

Họa Vận :

Phật rằng sắc sắc không không ,
Sắc sắc không không khó chất chồng.
Ân oán,nhiều người còn có ngóng,
Trải oan,lắm kẻ vẫn chờ trông.
Thế gian,nhân quả nhanh như bóng,
Cõi Phật,nhân duyên nhẹ tựa bông.
Xuân đến hoa xuân tươi đẹp mãi,
Luân hồi ra khỏi,hết bông lông.

Cổ Lai Hy
Quán Thơ Xóm Sâu Bò


7-Toán thi

Cả bài câu nào cũng có từ chỉ con số


Bói Số

Ruột rối bòng bong, một lá thuyền
Ngổn ngang trăm mối vẫn y nguyên
Người đi nghìn dặm còn thêm nhớ
Kẻ ở muôn năm vẫn lẻ duyên
Mớ hoảng, có kêu thời cũng hão
Ức thầm, dẫu khóc chỉ thêm huyền
Vạn người , ai kẻ chung tâm sự
Hãy triệu giùm tôi chú đỗ quyên

Bùi Tiến


8-Liên hoàn

Thể thơ có nhiều đoạn ,câu cuối của đoạn trên được chuyển thành câu đầu của đoạn dưới


Thi Lấy Ðược

Anh Phán nhà ta biết cóc gì
Kỳ thi Tham biện cũng ra thi,
Nhất thì anh đỗ,nhì anh trượt,
Chẳng đậu khoa này,khoa khác đi.
Chẳng đậu khoa này,khoa khác đi.
Nam nhi chi chí,há lo gì,
Một,hai,ba,bốn,năm năm trượt
Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi.

Nhẵn mặt quan trường,chẳng thẹn chi.
Trượt thi,thi trượt,vẫn gan lì.
. . . .
Tú Mỡ


Lính Tập Vinh Qui

Chú đội qua Tây thắng trận về,
Cả nhà đón rước thật mừng ghê !
Ông già,bà lão gồm hai cụ,
Vợ giảnh,con ngoan đủ mọi bề,(1)
Nảy ngực mề đay tiền bạc chói,
Rạng mình khố đỏ áo vàng xuê.
Giang sơn mày mặt càng tươi tốt,
Bộ cất tay lên,ngó cũng nghề .(2)

Bộ cất tay lên ngó cũng nghề,
Miệng cười tróm trém,húi râu dê.(3)
Xông pha trăm trận từng hăm hở
Gánh vác hai vai ghẹo nặng nề !(4)
Mở mặt Tiên Rồng dòng Ðại Việt,
Nổi danh hùng hổ cõi Âu tê(5)
Trong tình cảnh nọ dầu không vẻ,
Văng vẳng dường nghe tiếng ắc-đê !(6)

N.V.H


Chú thích
1-Vợ đẹp ( tiếng Nghệ)
2-Có vẻ tay nghề
3-Bộ râu xén như râu dê
4-Dù công việc có nặng đến đâu cũng không sợ (tiếng Nghệ)
5-Âu Tây.chữ tây,âm Hán có khi đọc là tê
6-Phiên âm chữ Pháp :un,deux.Tiếng hô đi đều của lính tập.


9-Liên hoàn thuận nghịch vận

Thể thơ như trên ,nhưng bài thứ 2 viết ngược vần lại với bài thứ nhất


Xem Núi Non Bộ

Non nhân,nước trí,điểu muông hiền,
Núi giả mà in dáng tự nhiên.
Một vũng xinh xinh ,vươn một ngọn,
Hai cầu nho nhỏ,vắt hai triền.
Thuyền ngư lướt suối dong miền tục,
Cánh hạc trườn mây bổng cõi tiên.
Ðối cảnh tâm tư dường nhẹ nhõm,
Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.

Lâng lâng chẳng bợn chút ưu phiền.
Bàn đá say cờ đôi lão tiên,
Lã vọng buông câu vờn sóng nước,
Phật đài mở lối lượn ven triền.
Sỏn thanh thủy tú,hồn u nhã,
Sắc lộng hương nùng ,khí hạo nhiên.
Phong cảnh tạo hình như giới thiệu
Chủ nhân đây cũng bậc nhân hiền.

Lạc Nam

10-Ô thước kiều

Thể thơ liên hoàn như trên,nhưng lấy 2 từ cuối,hoặc nhắc lại 2,3 từ nào đó ở câu cuối của bài trên để mở đầu cho câu 1 của bài dưới

Chống Tôn Thọ Tường

Lung lay lòng sắt đã mang nhơ,
Chẳng xét phận mình khéo nói vơ.
Người trí mang lo danh chẳng chói,
Ðứa ngu luống sợ tuổi không chờ.
Bài hòa đã sẵn in tay thợ,
Cuộc đánh hơn thua giống nước cờ.
Chưa trả thù nhà,đền nợ nước,
Dám đâu mắt lấp với tai ngơ

Tai ngơ sao đặng lúc tan tành,
Luống biết trách người,chẳng trách mình.
Ðến thế còn khoe đàng đạo nghĩa,
Như vầy cũng gọi kẻ trâm anh.
Biển khơi vụng tính dung thuyền nhỏ,
Chuông nặng to gan buộc chỉ mành.
Thân có,ắt danh tua phải có,
Khuyên người ái trọng cái thân danh.

Thân danh chẳng kể,thật thằng hoang,
Ðốt sáp nên tro lụy chẳng màng.
Hai cửa trâm anh xô sấp ngửa,
Một nhà danh giá xóa tan hoang.
Con buôn khấp khởi chưa từng ngọc,
Người khó xăng xăng mới gặp vàng.
Thương kẻ đòng văn nên phải nhắc.
Dễ đâu ta dám tiếng khoe khoang.

Phan Văn Trị ( 1830-1910)


11-Tập danh


a-Trong mỗi câu có danh từ gắn với đề tài


Mừng Ông Lão Hàng Thịt Ăn Thượng Thọ.

Nay tiết mừng ông mới Bảy mươi,
Cổ hy(1) chưa dễ mấy lăm người.
Răng long nhưng hãy còn tinh mắt
Ðầu bạc nhưng mà chửa tắc tai.
Bè bạn bày vai kèo (2)chén Lý(3)
Cháu con dưới gối múa sân Lai.(4)
Xưa nay vẫn giữ lòng chân thực
chữ đức giả xương máu để đời.

Nguyễn Khuyến


Chú thích
1-Do câu " nhân sinh thất thập cổ lai hy " ,ngưòi ta sinh ra sống được 70 tuổi,xưa nay rất hiếm có
2-Rót rượu mời người khác uống
3-Chén rượu của Lý Bạch ,nhà thơ uống rượu nổi tiếng
4-Lão Lai,người nước Sở đời Xuân Thu,tuổi đã ngoài 70 còn
cha mẹ, giả cách khóc như trẻ con để làm cho cha mẹ vui

b-Mỗi câu thơ có 1 từ chỉ bộ phận trong thân thể con người

Học Trò

Dài lưng tốn vải lại ăn no,
Nghĩ ngán cho thân phận học trò.
Thù nước,thù vua, ngay mặt chịu,
Công sưu,công ích,cắm đầu lo !
Vẫn giương mắt ếch mà ra quáng,
Còn ngậm lông mèo chả sợ ho !
Nói đến chuyện đời tai điếc đặc,
Rung đùi,chỉ nghĩ " tám đùi " to !
Nhì Mỹ


Chú thích
Ngậm lông mèo : ngậm bút chữ nho
Tám đùi :văn xưa gọi là " bát cổ "dịch là tám vế,vế đồng nghĩa với đùi.


12-Tính danh


Câu nào cũng có từ chỉ nhân danh hay địa danh Giống như Ðiển Thi,câu nào cũng dẫn 1 điển ở bên Tàu.Xưa kia các cụ đồ nho chuộng lắm vì như thế các cụ mới chịu cho là có học,rộng kiến thức.


Lỗi Thề
Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Ðường (1)
Ngọn đuốc Chiêm Thành(2) rở nhớ thương.
Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch (3)
Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương(4)
Lỗi thề Chung Tử (5) sầu tri kỷ
Hoen mái Tây hiên (6) lệ đoạn trường
Hồ Hán (7) ngậm ngùi mây cách biệt
Ngân Hà ( mưa gió nẻo cầu sương.

Toại Khang


Chú thích
1: Kiều trầm mình ở sông Tiền Ðường
2- Công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành
3- Ðường Minh Hoàng -Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau "sống làm vợ chồng chết là chim liền cánh cây liền cành "
4-Bạch Cư Dị,văn hào đời Ðường,đêm đậu thuyền ở sông Tầm
làm bài Tỳ Bà Hành cho ca nữ hát
5-Chung Tử Kỳ -Bá Nha là 2 bạn tri âm.Bá Nha gảy đàn,Tử Kỳ biết Bá Nha nghĩ gì.Tử Kỳ chết,Bá Nha đập đàn đi,không gảy nữa.
6-Trương Quân Thụy-Thôi Oanh Oanh tình tự dưới mái Tây hiên
7-Chiêu Quân nhà Ha&N sang cống Hồ
8-Ngưu Lang-Chức nữ đùng 2 bên sông Ngân Hà nhớ nhau khóc
thành mưa ngâu trong thábg 7 Âm lịch


13-Sắc thái

Câu nào cũng có từ chỉ màu sắc


Chiều Nổi Mầu Thu

Trời thu bóng ác rực mầu vang,
Trườn trượt vào lưng dặng núi vàng.
Cánh nhạn chiều tà sương lót trắng
Chòm mây mưa nhạt khói mờ lam.
Lầu thu thoát nắng nâng rèm tía,
Vườn vắng còn đây nở đóa vàng.
Nếu chẳng vương tìm hoa súng tím,
Thì đâu được ngắm nguyệt da cam


Toại Khang


14-Thủ vĩ ngâm


Thể thơ trong đó câu đầu và câu cuối giống nhau

Khoe Lười

Anh em chớ bảo ta lười,
Làm việc cho hay phải thức thời.
Xuân hãy còn chơi cho phỉ chí,
Hạ mà cất nhắc tất nhoài hơi.
Thu sang cảm nguyệt còn ngâm vịnh,
Ðông lại hầm chăn tạm nghỉ ngơi.
Chờ đến xuân sang ta sẽ liệu,
Anh em chớ bảo ta lười .

Tú Mỡ

Ðèn Kéo Quân

Lúng túng trong vòng mấy đứa đen,
Nhờ khi đỏ lửa mới hay hèn.
Nghênh ngang võng giá phô đồ giấy,
Ðủng đỉnh dù che nép bóng đèn.
Thằng trước thằng sau liền gót chạy,
Anh trên anh dưới vểnh râu lên.
Này ai say tỉnh nhìn xem thử,
Lúng túng trong vòng mấy đứa đen .

Khuyết Danh

15-Triệt hạ


Từ cuối của mỗi câu thơ để bỏ lửng làm cho câu thơ chưa trọn nghĩa,khiến người đọc phải nghĩ ra


Gái Hồng Nhan

Thấy gái hồng nha bỗng chốc mà . . .
Hõi thăm cô ấy chửa hay đà . . .
Hình dung yểu điệu in như thể . . .
Diện mạo phương phi ngó tưởng là . . .
Ăn mặc ra tuồng người ở chốn . . .
Nói năng phải lẽ giống con nhà . . .
Ước gì ta được mà ta để . . .
Ta để đem về để nữa ta . . .

Nguyễn Quý Tân

16-Yết hậu

Các câu trên đủ từ cả,riêng câu cuối cùng chỉ có 1 từ

Rượu Say Nhè

Sống ở nhân gian,đánh chén cay,
Trăm năm ngày thác ,gi" be đầy.
Diêm vương phán hỏi " Ai đó " ?
Say ! "

Sống ở nhân gian đánh chén khè ,
Trăm năm ngày thác,gi" đầy be.
Diêm vương phán hỏi " Ai đó " ?
Nhè ! "

Phạm Thái biệt hiệu Chiêu Ly

17-Áp cú

Từ cuối của câu trước trở thành từ đầu của câu sau

Sang Canh

Năm nảo năm nao cũng ước lành
Lành,còn mong hết ? đón sang canh
Canh trời thắc thỏm phương xin lộc
Lộc nước lăm le khách vít cành.
Cành lá đêm qua dù thiếu nụ
Nụ đào xuân hé đẹp hơn tranh,
Tranh đời mới lại màu hoa gấm
Gấm vóc sơn hà lộng sắc xanh.

Toại Khang

Chừa Rượu

Những lúc say sưa, cũng muốn chừa,
Muốn chừa, nhưng tỉnh lại hay ưa,
Hay ưa nên nỗi không chừa được,
Chừa được, nhưng mà cũng chẳng chừa.

Nguyễn Khuyến

(Sưu Tầm)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2006 08:38:36 bởi Viet duong nhan >

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 20.04.2006 08:36:48
0
Sưu Tầm ở đây
http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=8

18-Chơi chữ

Thể thơ chơi chữ rất phong phú và hứng thú .Chỉ xin liệt kê ra đây vài bài mẫu :

a-Chơi theo vần A B C . . .

Muốn Quy Thuyền

A Di Ðà Phật muốn quy thuyền,
B bết lòng tham hãy cứ nguyên.
C xích cho gần nơi cửa tịnh,
Ð đầu nguyện dứt mối trần duyên.

Thảo Am


Dở Dang

E không thoát khỏi xa niềm tục,
F gượng rồi ra cũng hão huyền.
T tái trần duyên tu chẳng trọn,
Y thời cũng trả,bát không quyên .

Bùi Tiến
Quán Thơ Xóm Sâu Bò


b-Chơi theo các dấu : Huyền - Sắc - Nặng - Hỏi

Huyền diệu trông lên cửa đạo thuyền,
Sắc không khôn rõ thấu căn nguyên
Nặng nề nghiệp chướng e chưa hết,
Hỏi mấy ai đà có thiện duyên .

Thảo Am

c-Các từ trong bài thơ đều dùng một phụ âm hay nguyên âm

Chuyện Cô Cháu

Cô chẳng cho con cả chén chè
Cô cho chút chút,chán cô chưa.
Chè còn,cô cất cho chua cả,
Con cũng chê,mà chó cũng chê

Bùi Tiến
Quán Thơ Xóm Sâu Bò


Chớ chớ,cháu cô chỉ chãnh chòe,
Cháo chè chi chiết chán chường chưa !
Chén chè cô cúng cho chùa cả,
Cầu cháu cùng cô chồng chẳng chê !
Mai Ninh
Quán Thơ Xóm Sâu Bò

d-Ý của các từ , cụm từ, câu thơ đều phải hiểu theo nghĩa bóng, điển . . .

Thể thơ chơi chữ này thú vị và bất ngờ nhất vì có khi người đọc nghĩ ra những ý mà chính tác giả cũng không nghĩ ra.


Tắm Trong Tù

Vùng vẫy mình trong bể nước đầy
Hết kỳ lại cọ,chẳng rời tay
Ông Tây cứ bảo mình yêu nước,
Ừ,chẳng yêu sao lại thế này ?

Nhượng Tống

Chú thích : Lệ nhà tù,một tuần mới cho tắm một lần,nên mỗi khi tắm,phạm nhân vùng vẫy kỳ cọ trong bể nước cho bằng đã.


Ghẹo Sư nữ

Ôm tiu cắp mõ ngủ kho kho,
Gió thổi mùng thiền mát mẻ cô,
Cánh cửa từ bi gài lỏng khóa,
Nén hương tế độ đốt đầy lò.
Cá khe lắng kệ đầu ngơ ngác ,
Chim suối nghe kinh cổ gật gù.
Nhắn với chúng sinh lòng muốn độ,
Ðêm đêm thường niệm chữ nam vô !

Nguyễn Khuyến ?
Mai Thế Quý ?




19-Kỵ đề


Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều không có từ nào chỉ đề tài
mà vẫn thể hiện đầy đủ yêu cầu của đề tài
Chưa sưu tầm ra bài mẫu


20-Bát điệp


Thể thơ trong đó tất cả 8 câu đều có lồng vào 1 hoặc 2 từ giống nhau.


Gái Muộn Chồng

Ai giám thương đâu gái có chồng
Thương vì một nỗi chực phòng không.
Thương con quốc đực kêu mùa hạ
Thương cái bèo non giạt biển đông
Thương vợ chồng Ngâu duyên chểnh mảng,
Thương cha mẹ nhện số long đong.
Cái thương quân tử thương là thế,
Có giám thương đâu gái muộn chồng.

Khuyết Danh



Còn Chơi

Ai đã hay đâu tớ chán đời
Ðời chưa chán tớ,tớ còn chơi.
Chơi cho thật chán,cho đời chán,
Ðời chán nhau thời tớ sẽ thôi.
* Nói thế,can gì tớ đã thôi ?
Ðời đương có tớ,tớ còn chơi.
Người ta chơi đã già đời cả
Như tớ năm nay mới nửa đời.

Tản Ðà


Chú thích
* Trong câu 5 Tản Ðà không có dùng từ đời
Nếu ta thay từ " can gì " bằng " đời nào " câu 5 thành :
Nói thế ,đời nào tớ đã thôi
Thì bài thơ thuộc thể Bát điệp.


21-Liên ngâm

Thể thơ trong đó 2 hoặc nhiều người làm chung một bài thơ lần lượt nhau mỗi người 1 hoặc 2 câu

Cảnh Tây Hồ

Bài này do bà Liễu Hạnh cùng ông Phùng Khắc Khoan ,1 ông họ Lý,1 ông họ Ngô chơi thuyền ở Hồ Tây liên ngâm :

Liễu
Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời

Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
Phùng
Trâu vàng biêng biếc nước vàng khơi.
Che mưa nhà lợp vài gian cỏ
Ngô
Chèo gió ai bơi một chiếc chài
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng

. . . . . . . . . . . .
Phùng
Ðông hết thành xuân chửa thấy mai.
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ
Ngô
Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi.
Xe săn Vị Thủy tha hồ hỏi

Thuyền tới Ðào nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm dục thanh lòng Phật đó
Liễu
Trăng tròn soi bóng một tiên thôi.
( Nguyên văn chữ Hán Truyện Liễu Chúa-Phan Kế Bính dịch nôm
trong Việt Hán văn khảo )


22-Hạn Vận


Người ra đề cho vần nào ta phải dùng vần ấy .
Thể thơ này khác với thể Họa Vận vì không có bài xướng để dựa theo mà họa ,hơn thế nữa,ta phải :

* Tả ý thơ theo đầu đề

* Dùng 5 vần hạn định ( trong 8 câu )

Ðầu Ðề :

Trống treo ai dám đánh thùng
Bậu không,ai dám dở mùng chun vô ?

5 Vần hạn định : xô,cô,vô,ô,rô.

( Cuộc thi thơ do học giả Phan Kế Bính tổ chức )
Bài thơ sát với đầu đề ,hạ đúng 5 vần hạn định ,được giải nhất mà tác giả lại là một nhà sư chân tu ! :

Nào phải là ai dám giục xô
Thuận tình truớc hết tự nơi cô
Có cho mới dám trao dùi đánh
Không hẹn nào ai đẩy cửa vô ?
Mảng sướng kể gì thân lễ nghĩa
Ham vui quên hết chuyện dâm ô
Thói hư thuần,thước xưa còn lạc
Ðừng học làm chi gióng nhảy rô !



23-Phú Ðắc

Giải thích và phát triển ý của một câu ca dao hay một câu thơ bằng một bài thơ ,nhưng nội dung phải phù hợp với sự việc đó.


Già Còn Muốn Lấy Chồng

Phú Ðắc :
Bà già đã bảy mươi tư,
Ngồi trong cửa sổ gửi thư kén chồng

Ðã trót sinh ra kiếp má đào,
Bảy mươi tư tuổi có là bao ?
Xuân xanh xấp xỉ hàng răng rụng
Ngày vắng ân cần mảnh giấy trao.
chữ nhất nhi chung đành đã vậy (1)
Câu tam bất hiếu nữa làm sao (2)
May mà lấy được ông chồng trẻ
Họa có sinh ra được chút nào ?

Nguyễn Khuyến


Chú thích
1-Nhất nhi chung : chỉ có một chồng cho đến trọn đời.

2-Tam bất hiếu :Theo thuyết Khổng Mạnh có câu " Bãt hiếu h"u
tam ,vô hậu vĩ đại " Nghĩa là tội bất hiếu có 3 điều,không có
con trai nối dõi là tội to nhất .

Thách Vần

Phú Ðắc :
Tối um um,trống điểm thùm,
Dáng lum khum,có lẽ hùm !
Quán tùm hum !


Giời hôm như mực cỏ xanh um,
Kẽm trống đâu đây bước đánh thùm,
Ven núi chẳng nề cao với thấp,
Qua cầu đếch biết thẳng hay khum.
Ðường mây,ngọn gió,đôi đàn vạc,
Móng đá chân sim,một dấu hùm.
Sực thức đêm khuya thương kẻ lạnh,
Màn,chăn,đệm ấm hủm hùm hum.

Lê Lượng Thể
Biệt hiệu Thảo Trang




24-Láy Thơ


Thể thơ trong đó hoặc ở đầu câu,ở giữa câu hay ở cuối câu đều có từ láy-Láy có 3 loại :

a-Láy từ : Từ đùng trước được láy lại toàn bộ ở từ sau : ngời ngời-xinh xinh-ngà ngà-ngoan ngoãn . . .

b-Láy âm :Bộ phận phụ âm đàu của từ trước được láy lại ởbộ phận phụ âm của từ sau : khó khăn-đỡ đần . . .

c-Láy vần : Bộ phận vần của từ trước được láy lại ở bộ phận vần của từ sau : bồn chồn-lẩm cẩm-cheo leo . . .

d-Láy có 3 thể :
* Láy đôi : canh cánh-tà tà -lăm le . . .
Láy âm đôi

Quan Khánh

Ðứng tréo trông theo cảnh hắt heo,
Ðường đi thiên thẹo,quán cheo leo
Lợp lều quán cỏ tranh xơ xác
Xỏ kẽ kèo tre đót khẳng khiu.
Ba chạc cạy xanh hình uốn éo
Một dòng nước biết cảnh leo teo.
Thú vui quên cả niềm lo lắng
Kìa cái diều nó lộn lèo !

Hồ Xuân Hương


* Láy ba : Sạch sành sanh-dửng dừng dưng - sát sàn sạt . . .

Láy vần ba - Vĩ Tam Thanh

Ngẫu Hứng

Tiếng gà bên gối tẻ tè te,
Bóng ác trông lên hé hẻ hè.
Cây một chồi cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lóe lòe loe.
Chim tình bè lứa kia kìa kịa,
Ong, nhĩa vua tôi nhé nhẻ nhè.
Danh lợi mặc người ti tí tị,
Ngủ trưa chửa dậy khỏe khòe khoe.

Vô Danh


* Láy tư : Trùng trùng điệp điệp-lúng ta lúng túng-hớt hơ hớt hải-áo áo quần quần . . .

Hạ Long Tức Cảnh

Trùng trùng điệp điệp núi chon von,
Ảo ảo mơ mơ thế trận hồn ,
Lớp lớp hàng hàng hòn Bái Tử,
Non non nước nước một lòng son.

Tùng Linh
Quán Thơ Xóm Sâu Bò



25-Lái Thơ


Thể thơ có những cụm từ đôi được lái thành cụm từ đôi khác ( hoặc cụm từ ba ,nhưng rất ít ),như trong câu :
Con cá đối nằm trong cối đá
Hoặc trong cảnh Trạng Quỳnh ngồi bờ ao chơi đá bèo làm cho bà Quận Chúa phải đỏ mặt.



Muốn Quy Thuyền

Cầu đạo cần chi phải cạo đầu ,
Dầu lai dưa muối cũng dài lâu .
Na bường bát tới nương bà vãi,
Dầu sãi không tu cũng giải sầu .

Thảo Am

Nhắn Bạn

Nhắc bạn những thương tình nhạn bắc,
Trông đời chỉ thấy cảnh trời đông.
Ðêm thâu tiếng dế đâu thêm mãi,
Cười ngả nghiêng cho mệt cả người.

Thảo Am



26-Cô nhạn xuất quần

Thể thơ trong đó vần câu đầu làm khác hẳn ,không giống mấy vần dưới

Tiến Sĩ Giấy :

Khéo chú hoa man khéo vẽ trò ,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu ..
Mày râu vẻ mặt vang trong nước ,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu ?
Bán tiếng , mua danh thây lũ tre ?
Bản vàng , bia đá vẫn nghìn thu .
Hỏi ai muốn ước cho con cháu ?
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu .

Nguyễn Khuyến





27-Cô nhạn nhập quần

Thể thơ trong đó mấy vần trên đi với nhau ,chỉ có vần dưới
làm khác hẳn đi


Cái Bùng Binh *

Chỉ biết tiền thôi có biết gì ,
Xác to mà bụng tỉ tì ti .
Chành bành ra rứa đeo ăn mãi ,
Ðút nhét vô hoài chẳng nói chi .
Làm tướng đời mô còn tiếng lại , **
Ðể quân trẻ nhỏ cứ thu đi . ***
Ngày đêm lúc lắc coi chừng đã ,
Chừng đã đầy thời phải đập nghe !

Khuyết Danh


* Bùng binh là một thứ bình làm bằng đất sét , trẻ con trong Nam thường dùng để bỏ dành tiền , như kiểu lợn ngoài Bắc .

** Thành ngữ gọi : đại tướng bùng binh .

*** Trẻ con có bùng binh thường thu giấu kín đáo



28-Liên Châu

Thể thơ tràng thiên dùng nguyên một vần mà câu nào cũng có vần

Chưa sưu tầm ra bài mẫu



29-Vấn nghi


Câu thơ nào cũng theo thể hỏi,nên sau mỗi câu đều đặt được dấu hỏi cả.


Vấn Nguyệt
Trải mấy thu nay vẫn hãy còn ?
Cớ sao khi khuyết lại khi tròn ?
H"i con Ngọc-thỏ đà bao tuổi ?
Chớ chị Hằng-nga đã mấy con ?
DÐêm thẳm cớ chi soi gác tía ?
Ngày xanh còn thẹn với vừng son ?
Năm canh lơ lửng chờ ai đó ?
Hay có tình riêng với nước non ?

Vô Danh



30-Thuận nghịch độc
( hồi văn )


Thể thơ khi đọc xuôi là 1 bài thơ,mà đọc ngược cũng là 1 bài thơ .Thể thơ này đòi hỏi công phu ghép từ thật khéo và phải làm theo đúng luật bằng trắc để có thể đọc xuôi ,đọc ngược đều có nghĩa ,câu thơ chải chuốt không khổ đọc


Cảnh Tây Hồ

Ðọc xuôi

Ðây vui thực lạ cảnh Tây Hồ !
Trước tự trời kia khéo vẽ đồ.
Mây lẫn nước xanh màu tỏ ngọc,
Nguyệt lồng hoa thắm vẻ in châu
Cây la tán rợp từng cao thấp,
Sóng gợn cầm tâu nhịp nhỏ to.
Bày khéo thú vui non nước đủ,
Tây Hồ giá ấy dễ đâu so !

Khuyết Danh


Ðọc ngược

So đâu dễ ấy giá Hồ Tây ?
Ðủ nước non vui thú khéo bày.
To nhỏ nhịp tâu cầm gợn sóng,
Thấp cao từng rợp tán la cây.
Châu in vẻ thắm ,hoa lồng nguyệt,
Ngọc tỏ màu xanh ,nước lẫn mây.
Ðồ vẽ khéo kia trời tự trước,
Hồ Tây cảnh lạ thực vui đây !

Khuyết Danh



Xuân Hứng

Ðọc xuôi
Thi đàn tế liễu lộng hoa hài

( Hán )
Khách bộ tùy sương ấn bích đài
Kỳ cục đã thanh phong giáp trận
Tửu hồ khuynh bạch tuyết hòa bôi !
Sơ liêm thấu nguyệt hương hung trúc,
Tuyết án lăng hoa vị áp mai
Phi phất thảo am đầu tĩnh điếm
U tình cố nãi thuộc quyên ai !

Khuyết Danh


Ðọc ngược theo phiên âm chữ nôm :

Ai quen thuộc ấy có tình ư ?
Ðiếm tĩnh đầu am cỏ phất phơ
Mai ép mùi hoa lùng án tuyết
Trúc lồng hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén hòa tuyết trắng nghiêng hồ rượu
Trận giáp phong thanh đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sương theo bước khách
Hài hoa lỏng lẻo tới đàn thơ.

Khuyết Danh



31-Phá cách

Thơ làm thất niêm có dụng ý


Trèo Ðèo Ba Dội
Một đèo,một đèo,lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ hoét tùm hum nóc,
Kẽ đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt léo cành thông cơn gió thốc,
Ðầm đìa lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mõi gối chồn chân vẫn muốn trèo.
Hồ xuân Hương

Chú thích
Bài thất ngôn bát cú này làm theo thể bình,vần bình Nhưng không theo niêm luật ( xem đối chiếu Phần Hai )

Phần II
Ðón Xem


Mấy Ðiều Kỵ Trong Thơ

Phép làm thơ ,có mấy điều tối kỵ không nên phạm đến :


1-Thất luật

những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng


2-Thất niêm


Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng

3-Lạc vận


Ðang theo vần này mà gieo sang vần khác, như như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận

4-Xuất vận


Người ta đã hạn định cho những cho những vần gì,mà mình dùng vần khác,thì gọi là xuất vận.


5-Trùng vận


Câu trên đã dùng một vần ,câu dưới lại dùng dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận.

6-Cưỡng áp


Các vần gieo ép uổng, không được hiệp lắm


7-Khổ độc


Trong một bài thất ngôn,chữ thứ ba các câu chẵn,trong một bài ngũ ngôn,chữ thứ nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc

8-Phong yêu hạc tất

Trong thơ thất ngôn,từ thứ tư và tứ thứ bảy,trong thơ ngũ ngôn,từ thứ hai và từ thứ năm nếu trùng một âm


9-Ðối không chỉnh

Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân

10-Trùng từ hay trùng ý

Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.


* Tài liệu tham khảo

1- Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dương Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
2- Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thư,1965
3- Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phương, 1952
4-Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam ,nxb Văn Học-Hà NộI , 1996
5-Khảo Luận Về Thơ , Lam Giang, nxb Ðồng Nai, 1994
6-Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu , nxb Văn Học-Hà Nội ,1971
7-Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Ðến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn Học-Hà Nội , 1974
8-Thơ Văn Yêu Nước (1858-1900) , Chu Thiên ,nxb Văn Học - Hà Nội , 1970
9-Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb nam Chi Tùng Thư, 1961
10-Việt Nam Gãm Hoa ,Hương-Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn-Canada,1997
11-Người Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tường , nxb Thuận Hóa ,1998


http://nmchau.club.fr/forum/viewtopic.php?t=8
<bài viết được chỉnh sửa lúc 20.04.2006 08:41:08 bởi Viet duong nhan >

eureka_vn
  • Số bài : 8
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 20.04.2006
RE: Luật Làm Thơ - 20.04.2006 21:35:33
0
Các bài, bài nào cũng hay!

... vẳng lời mộng mị giữa thiên thu!

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
RE: Luật Làm Thơ - 21.04.2006 02:52:52
0


Trích đoạn: eureka_vn

Các bài, bài nào cũng hay!

Cảm ơn eureka_vn.
Chúc vui
vdn

VuTuanAnh
  • Số bài : 14
  • Điểm: 0
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 06.03.2005
RE: Luật Làm Thơ - 15.07.2006 17:35:11
0
bà con cho tôi hỏi chút?
Cái thơ ông Lưu Quang Vũ và cụ Lê Đại Thanh làm theo luật thơ gì mà tôi chưa có được coi há? Chắc họ có luật riêng?

Trần Mạnh Hùng
  • Số bài : 9422
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.07.2005
  • Nơi: Giấc Mộng
RE: Luật Làm Thơ - 16.07.2006 01:20:46
0


Trích đoạn: Đuyên Hồng

Tôi nghĩ rằng nhiều khi Thơ phải phá luật một ít thì mới đỡ nhàm chán. Thơ cũng như cuộc sống cần phải có cái mới.
Xin được chỉ giáo!



Bạn Thân

Đều này bạn nói đúng đối với bạn, Bạn muốn phá luật bao nhiêu cũng được. Mời bạn cứ tha hồ.
Trần Mạnh Hùng
"Thơ là trừu tượng, tình cảm là hư cấu được cấu tạo rất vô tư trong hồn thơ
Nếu ý thơ đi quá mức giới hạn của tình cảm, đó là sự hồn nhiên của thơ, xin đừng giận, sự giận dữ làm mất đi vẻ đẹp của thơ".
Trần Mạnh Hùng

Trần Mạnh Hùng
  • Số bài : 9422
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 02.07.2005
  • Nơi: Giấc Mộng
RE: Luật Làm Thơ - 16.07.2006 01:40:52
0


Trích đoạn: VuTuanAnh

bà con cho tôi hỏi chút?
Cái thơ ông Lưu Quang Vũ và cụ Lê Đại Thanh làm theo luật thơ gì mà tôi chưa có được coi há? Chắc họ có luật riêng?


Bạn thân

Khi bạn nêu ra câu hỏi thì chắc chắn bạn đã có câu trả lời rồi.

Hai ông Lưu Quang Vũ và Lê Đại Thanh nếu là những người nổi tiếng vang danh bậc THI HÀO như cụ Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến vân vân và vân vân...chắc chắn mọi người theo chân hai ông để học hỏi rồi ( trong đó có cả tôi ).

Như tôi đã trình bày với bạn văn thơ mỗi người mỗi sở trường, mỗi sự rung cảm không ai giống ai, không thể ép tha nhân làm theo ý mình được, trừ khi ai đó tâm phục khẩu phục thì không kể

Có những bài thơ rất tầm thường đối với người khác, nhưng riêng cá nhân tôi thấy hay, thấy cảm thông được từng lời, từng ý, thì bài thơ đó quả là tuyệt diệu.

Mình không thể nào phán đoán bài thơ này dở hơn bài thơ kia, thể thơ này kém phóng túng hơn thể thơ kia cái đó tuỳ theo ý thích, quan niệm của cá nhân mà thôi.
Chào bạn
Trần Mạnh Hùng
"Thơ là trừu tượng, tình cảm là hư cấu được cấu tạo rất vô tư trong hồn thơ
Nếu ý thơ đi quá mức giới hạn của tình cảm, đó là sự hồn nhiên của thơ, xin đừng giận, sự giận dữ làm mất đi vẻ đẹp của thơ".
Trần Mạnh Hùng

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
RE: Luật Làm Thơ - 18.07.2006 03:17:13
0
Chào ACE bạn thơ !
Theo vdn nghĩ : Nên đóng Topic này lại là vừa rồi đó.
Chúc tất cả an vui.
VDN

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 23.07.2006 01:43:25
0
(Bài của Nguyên Đỗ)

Chào tất cả anh chị em,

Bài của anh Nguyễn Vũ Văn do chị Việt Dương Nhân góp nhặt về hay lắm, tạo cho chúng ta những người đã, đang hay sẽ làm thơ một ít khái niệm về kỹ thuật thơ.

Theo thiển ý của ND là một người yêu chuộng thơ, đọc thơ và cũng làm thơ chút chút thì thơ phải có hồn, có vần, có điệu, có luật, dù là luật cũ hay luật mới, ngay cả khi viết văn cũng có những qui tắc mình phải tuân theo để đem tác dụng văn tới đỉnh cao, chứ không phải bạ đâu viết đấy, viết cho lạ cho kêu thì đã là sáng tạo.

Đa số chúng ta đều là những người viết mãi mà nên, cuốc mãi mà thành, chứ không phải ai cũng là thiên tài xuất khẩu thành thơ như Tào Thực. ND dám bảo đảm là Tào Thực nhỏ tuổi nhưng đã đọc cả ngàn bài thơ rồi mới có khả năng bước một bước làm một câu thơ.

Thơ xuất phát tại hồn, nhưng người viết phải bỏ công ra mài giũa, trau chuốt cho có vần có điệu, ngôn từ thanh thóat cho người đọc cùng cảm nhận ý mình, đồng cảm với tiết điệu tâm hồn mình lãnh nhận.

Thời Thơ Mới xuất hiện đã có cuộc tranh chấp lớn giữa phái Thơ Cổ ( các loại thơ Đường Luật, Lục Bát, Song Thất Lục Bát...) và phái Thơ Mới ( thơ tự do kiểu tám chữ, bảy chữ, sáu chữ ...) khiến thi ca Việt Nam tiến thêm một bước nữa, bây giờ có trường phái Tân Hình Thức ra đời cũng gây rầm rộ khắp nơi...

Thơ bao giờ cũng biến chuyển với thời gian, phải uyển chuyển như sông như suối, hòa nhịp với bước tiến của dân tộc, cuộc đời mới ra tới biển cả thi ca. Thơ phải đổi mới với thời cuộc. Thơ chỉ chú trọng vào mới lạ, không lấy hơi thở từ thực tế cuộc sống sẽ khó mà tồn tại, hay có một người bạn thơ nói với tôi "Thơ chết"! Chúng ta không nên công kích lối thơ này, lối thơ nọ mà hãy đọc những bài thơ của từng lối thơ, để riêng bài thơ đó nói với hồn mình, để mình cảm nhận tứ thơ từ người viết. Không phải trái cam nào cũng ngọt dù cùng một gốc cam, có trái cam xanh đắng ngắt, có trái chua lè, trái vừa độ chín thì ngọt tuyệt, chứ trái chín quá lâu có khi lại ủng.

Cá nhân tôi thấy lối thơ cũ như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, Ngũ Ngôn Đường Luật, Lục Bát, Song Thất Lục Bát, hay các lọai thơ tư do mới đã được thử luyện với thời gian và đã thành công rực rỡ, các bạn mới làm thơ nên học hỏi trong đó trước rồi từ từ tiến, trước khi xông pha vào chiến tuyến Tân Hình Thức vì luật lệ chưa hẳn hoi và cũng chưa có gì để bảo đảm sống mãi trong lòng nhân dân trong nước và Việt kiều trên các nẻo đường thế giới. Đừng ỷ y ta mới theo mới khi không nắm vững luật cũ đã được rèn luyện từ bao đời.

Thơ là hồn mình, mỗi người nên thận trọng chọn khuôn mẫu thuyền thi ca để đóng chiếc thuyền thơ bền chặt vững chắc đưa mình đi tới vùng trời ước mơ, đừng vội vã đóng bậy bạ mà chết chìm! Cầu chúc anh chị em sáng tác vui vẻ hòa nhã và sáng tạo.


Nguyên Đỗ

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Luật Làm Thơ - 27.11.2006 19:43:14
0
việt dương nhân Sưu tầm
 

THƠ VIỆT NAM

Thơ Việt Nam khác với Thơ của Tàu (Trung Hoa) ở điểm:
- Thơ Việt Nam vừa có cước vận vừa có yêu vận.
- Thơ của Tàu chỉ có cước vận mà không có yêu vận.

Thơ Việt Nam chính tông có 2 thể:
- Thơ Lục Bát.
- Thơ Song Thất Lục Bát.


1. THƠ LỤC BÁT

Lục là 6, Bát là 8.
Thơ lục bát là thể thơ khởi đầu bằng một câu 6 chữ rồi câu kế tiếp là 8 chữ. Và cứ liên tục như vậy hoài cho đến hết bài thơ.
Bài thơ lục bát muốn dài ngắn bao nhiêu câu cũng được, không hạn định số câu. Nhưng khởi đầu phải là câu 6 chữ và cuối cùng phải là câu 8 chữ.

Luật của thơ Lục Bát được định như sau:

b - B - t - T - b - B
b - B - t - T - b - B - t - B


Bằng viết tắt là b - B
Trắc viết tắt là t - T
b và t nhỏ (không viết hoa) thì Bằng hay Trắc gì cũng được.
B và T lớn (viết hoa) bắt buộc phải giữ đúng luật Bằng Trắc như đã định.

Chúng ta có thể nhớ luật bằng trắc của thơ lục bát như sau:

Tiếng thứ 1, 3, 5, 7 của câu Lục và câu Bát không cần giữ đúng luật Bằng, Trắc.
Tiếng thứ 2, 6, 8 của câu Lục và câu Bát bắt buộc phải giữ đúng luật Bằng.
Tiếng thứ 4 của câu Lục và câu Bát bắt buộc phải giữ đúng luật Trắc.
Vần: Trong thơ lục bát, tiếng thứ 6 của câu 6 phải vần với tiếng thứ 6 của câu 8, rồi tiếng thứ 8 của câu 8 phải vần với tiếng thứ 6 của câu 6 kế tiếp theo sau. Và cứ tiếp tục tuần tự như vậy hoài cho tới hết bài thơ.

Thí dụ như 4 câu thơ sau đây:

Ta cùng uống nước sông Tương
Trông nhau chẳng thấy nhớ thương dạt dào
Chập chờn trong giấc chiêm bao
Đôi nơi cách trở kiếp nào mới nguôi



GHI CHÚ QUAN TRỌNG:
Trong thơ lục bát, nếu tiếng thứ 6 của câu bát là KHÔNG DẤU thì tiếng thứ 8 (cũng của câu bát) phải là DẤU HUYỀN.
Ngược lại, nếu tiếng thứ 6 của câu bát là DẤU HUYỀN thì tiếng thứ 8 (cũng của câu bát) phải là KHÔNG DẤU.

(ÐÓ LÀ LUẬT BẮT BUỘC)


Thanh
Thanh là những tiếng phát ra nghe được khi chúng ta nói hoặc đọc.
Thanh có 2 loại:
- Thanh Bằng.
- Thanh Trắc.

Thanh bằng là những tiếng không dấu và những tiếng có dấu huyền. Thí dụ: ăn, đi, nằm, ngồi ...

Thanh trắc là những tiếng có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng. Thí dụ: nói, đứng, đỏ, lửa, diễm, nhuyễn, lạnh, nguội ...

Vần
Vần là những tiếng khi phát âm nghe cùng âm hưởng với nhau. Vần được tính từ nguyên âm đầu tiên của một từ (bỏ phụ âm đầu ra không tính).
Chúng ta có thể khái niệm vần là những từ same sound và same spelling.
Thí dụ:
Thương, trường, sương, đường, vương ...

Sinh, đình, minh, tình, chinh ...
 
2. THƠ SONG THẤT LỤC BÁT

Song thất lục bát:
Song = 2, thất = 7, lục = 6, bát = 8.
Song thất lục bát là thể thơ mà hai câu đầu 7 chữ, gọi là Song thất.
Liền theo là một câu 6 chữ và một câu 8 chữ, gọi là lục bát.

Thơ song thất lục bát là bài thơ khởi đầu bằng hai câu 7 chữ, rồi tới câu 6 chữ kế tiếp là câu 8 chữ. Rồi trở lại hai câu 7 chữ tiếp theo câu 6 chữ cuối cùng là câu 8 chữ. Cứ luân phiên như vậy hoài cho tới khi chấm dứt bài thơ.
Cũng như thơ lục bát, thơ song thất lục bát dài ngắn bao nhiêu cũng được, không hạn định số câu, nhưng bắt buộc phải khởi đầu bằng hai câu 7 chữ rồi liền theo hai câu lục bát cuối cùng.

BẢNG LUẬT:

b - t - T - b - B - t - T
t - b - B - t - T - b - B
b - B - t - T - b - B
b - B - t - T - b - B - t - B


Ghi chú:
- Chữ B và T (lớn) bắt buộc phải giữ đúng luật bằng trắc.
- Chữ b và t (nhỏ) muốn bằng hay trắc gì cũng được (không cần phải giữ đúng luật).

Cách gieo vần:
- Tiếng cuối của câu thất đầu là thanh trắc phải vần với tiếng thứ 5 câu thất kế cũng là thanh trắc
- Tiếng cuối của câu thất kế thanh bằng phải vần với tiếng cuối của câu lục cũng là thanh bằng.
- Tiếng cuối của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát (đều là thanh bằng).
- Tiếng cuối của câu bát vần với tiếng thứ 5 của câu thất tiếp theo (đều là thanh bằng), và cứ như vậy mà tiếp tục làm hoài dài bao nhiêu cũng được.

Bài thơ thí dụ để minh hoạ:

Sầu chia cách nụ cười tắt lịm
Hoa lục bình nở tím ven sông
Thuyền ai lơ lửng xuôi dòng
Hoàng hôn buông xuống cõi lòng quạnh hiu

Con sông vắng bóng chiều hiu hắt
Nhịp cầu tre ai bắc đong đưa
Quê nghèo nắng nhạt mưa thưa
Hàng cau thương nhớ bóng dừa vấn vương


Hoàng Thứ Lang

Viet duong nhan
  • Số bài : 6666
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 25.10.2004
  • Nơi: Suối Yêu Thương
Thi ca và nghệ thuật - Tác giả: Quỳnh Thi - 31.03.2011 03:15:55
0
Thi ca và nghệ thuật

Nơi xuất phát ra thơ



Tứ diệu đế: Đất – Nước – Gió – Lửa, tạo nên đời sống vạn vật và con người. Nó cũng tạo nên Thơ. Tinh túy thơ từ đó phát sinh. Và con người biết khai thác, tận dụng làm sinh thú

Thơ...

cho đời sống tinh thần của mình.
 
Nguyên lý của Trời đất tự bao giờ có. Chẳng ai biết, rồi nó ban phát cho muôn loài, được gọi là thiên nhiên. Sông núi hữu tình, hoa nở bốn mùa thắm xinh, khí trời nóng ấm, mát lạnh. Chất thơ mênh mang không thể thiếu hòa quyện vào đời sống, tâm hồn con người, để con người vui sống, sinh tồn hiện hữu và hưởng thụ. Người ta gọi đó là nghệ thuật mà nghệ thuật là cái đẹp. Thi ca là cái đẹp. Những tác phẩm được gọi là nghệ thuật đều tỏa ra ngạt ngào vẻ đẹp.
Tứ diệu đế thăng hoa thành cái đẹp, mà con người phải tìm kiếm. Đi tìm cái đẹp, dĩ nhiên cái đẹp là một sự vật đã có sẵn. Có sẵn không phải là nó lộ diện, hiện hình, mà ta phải đi tìm kiếm. Đi tìm bằng cách sáng tác. Người sáng tác là nghệ sĩ. Nghệ sĩ tạo nặn ra, làm ra, tìm ra cái đẹp để đáp ứng, cầu toàn cái nhu cầu đời sống tâm linh. Do vậy mà người nghệ sĩ là người suốt đời đi tìm. Họ tìm trong thiên nhiên, Trời đất con người. Họ tìm nơi chính họ. Cào cấu nơi chính tư duy của họ. Họ gào thét từ niềm đau, từ trong sâu thẳm cuộc sống để làm nên nghệ thuật. Vậy thì tính chất của nghệ thuật được gạn lọc từ nơi chốn xù sì nhất, ảm đạm nhất, hoang vu nhất. Nó được lấy ra từ một hố thẳm nào thâm sâu nơi con người. Một nơi tăm tối nào từ vực sâu, rồi người nghệ sĩ dùng tài năng, kiến thức của mình mài dũa, gột rửa, lau chùi rồi nó sẽ được ban cho một thứ ánh sáng huyền diệu, một thứ hào quang đặc biệt nào mà người nghệ sĩ hà hơi vào, biến nó thành cái đẹp. Họ không thể dễ dàng kiếm ngay ra được một thứ vật quí hiếm, mà phải cất công đi tìm khó nhọc, có khi cái giá phải trả bằng máu hay bằng mạng sống của họ!
Chúng ta thấy người nghệ sĩ điêu khắc, từ khi nắm một vật vô tri, vô hình như thỏi đất đá, gỗ sắt, không phải anh làm chỉ ngày một ngày hai, mà nó trở thành ra pho tượng nghệ thuật theo ý mình. Người họa sĩ đứng trước một khung vải cũng phải ưu tư, tìm tòi, để kiếm ra một đường nét, một mầu sắc, một bố cục cho riêng minh. Cái bố cục và đường nét của bức tranh làm cho bức tranh độc đáo, bắt mắt người thưởng ngoạn, phải tốn biết bao lần phác họa, có khi vẽ đi vẽ lại, thử nghiệm mệt mỏi, si mê điên dại mới vừa ý. Phải tìm để mong bắt gặp một nguồn ánh sáng phép lạ nào soi chiếu vào người mẫu, vào cảnh vật hữu tình, làm hứng khởi. Vóc dáng mà anh vừa tìm thấy, hay khuôn mặt vừa bắt gặp trong trí tưởng trừu tượng hay hiện thực mà anh cho là nghệ thuật. Ôi chao! Bao nhiêu là khổ cực và nhẫn nại mà kể.
Nhà văn cũng vậy, khi đặt bút viết, anh ta phải suy nghĩ, ưu tư với đề tài mà mình sẽ viết ra. Văn thể, cốt truyện, bút pháp, sao cho câu văn chữ nghĩa lôi cuốn người đọc. Anh ta phải biết gieo hạt mầm sự sống vào tác phẩm thì nó mới thật, mới linh động, lúc đó người đọc mới khám phá ra được sự diệu kỳ của văn chương. Còn người làm thơ, đi tìm tứ thơ, đi tìm ngôn ngữ, nhạc tính cho thơ. Anh ta đi tìm cái gợi hứng, cái xúc động, nguồn cảm hứng để viết nên bài thơ, mong làm rung động lòng người, là người phải sống thực trước đã. Làm thơ mà thiếu cái cảm xúc thực của đời sống, thì không thể gọi được là một thi sĩ tài năng. Bài thơ mà không rung động được lòng người thì chỉ là một bài thơ vô hồn, một bài thơ vô hồn là một bài thơ chết. Nó chỉ là một cái xác chữ không hơn.
Nghệ thuật viết văn, tính chất của sự thật dù là hư cấu trong tác phẩm tự nó đã nói lên giá trị cái phẩm hàm để cảm hóa và thuyết phục người đọc. Nghệ thuật phải vượt lên cao hơn lòng thù hận. Vì lòng thù hận chỉ là cái ngã tầm thường, nó làm giảm đi cái giá trị lớn lao của văn chương, của tác phẩm. Nó là mớ bòng bong để tuyên truyền. Nội lực tài năng và bản lãnh của nhà văn là ở chỗ đó. Tư cách là ở chỗ đó.
Có không ít bài thơ mà chúng ta thấy, chữ nghĩa quá mầu mè ướt át, hay người làm thơ dùng chữ cầu kỳ giả tạo, cốt để làm dáng uyên bác rởm. Ý nghĩa thì vô hồn, tẻ hạt, không có tăm dáng của cảm xúc.
Chúng ta nên nhớ, thơ không dựa và gối đầu lên thứ lý trí vô tri nhạt nhẽo, mà cái nôi của thơ là chiều rộng của cảm xúc và tư tưởng. Thơ dù là thơ Tự do, thơ Đường luật, thơ tiền chiến hay thơ Tân Hình thức (THT), thơ không thể nào là một chuỗi tự sự, kể lể dài dòng, thiếu ẩn dụ gợi mở.
Thơ THT Việt thời gian gần đây sa đà vào một khuyết điểm lớn là: kể chuyện dài dòng, lê thê. Hơn thế nữa thơ THT lại câu nệ vào số chữ trong câu như 7 chữ hay 8 chữ, giống và rập khuôn thơ Tiền chiến, khiến người đọc và nhất là người làm thơ rất khó chịu, vì sự gò bó vào số chữ qui định trong mỗi câu thơ. Nó làm mất sự tự do lẫn cảm hứng khi làm thơ.
Tuy nhiên thơ THT khác thơ vần Tiền chiến là: nó không lệ thuộc vào vần bằng trắc nên người ta còn gọi là thơ không vần. Là thơ không vần thì chỉ loại bỏ được việc gò bó vần điệu, khỏi phải đi tìm chữ để cho đúng vần khi đi tìm ý thơ để câu thơ không bị ảnh hưởng cảm hứng. Nhưng ngược lại, THT tự sự, kể lể như đã nói ở trên nên nó thiếu chất thơ, ít nhạc tính. Thơ THT giống như một đoản văn ngắn. Thiển nghĩ những người thích làm thơ THT Việt cần phải khắc phục để sự phát triển lâu dài và người thưởng ngoạn không bị nhàm chán.

Nên chăng, người làm thơ THT nên loại bỏ một số chữ qui định mỗi câu thơ. Nghĩa là không ấn định số chữ qui định trong mỗi câu thơ, nhưng vẫn giữ cách xuống hàng đột ngột khi câu chưa hết ý. Chúng ta có thể hiểu như là cách làm thơ Tiền chiến phá thể?
Những người thao thức cách tân thơ, làm mới thơ, đó là một cần thiết trong nghề thơ, trong nghệ thuật thơ. Chúng ta trân trọng những nhà thơ có tâm huyết đó. Sáng tạo có nghĩa là làm mới. Vì khi họ không làm mới được nữa, thì sáng tạo cũng không còn tiếp tục được. Lúc đó việc làm thơ cũng chỉ là một việc làm giống như loài trâu, bò nhai lại cái bã của mình và của người khác đã nhả ra.
Còn nhớ hồi gặp nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lúc còn sinh tiền ở Sài Gòn, tôi hỏi. “Sao lúc này anh lại vẽ bộ bỏ viết nhạc rồi sao? “Anh trả lời.” Mình viết nhạc lúc này gặp bế tắc, nên quay sang vẽ một thời gian xem sao. “Cách trả lời đó là lòng tự trọng và khiêm nhường của một người nghệ sĩ lớn.
Những năm sau này âm hưởng dòng nhạc họ Trịnh lan tràn khắp nơi, khiến nhiều người viết nhạc bắt chước, nhái theo âm giai, cung điệu âm nhạc của anh. Ngay cả những người đã có tiếng tăm. Họ quên rằng mỗi người sáng tạo, tác phẩm làm ra phải có một cá tính riêng thì mới được gọi là căn cước của người nghệ sĩ ấy. Người ta không ngạc nhiên khi thấy giới sáng tác âm nhạc Việt Nam đi thụt lùi so với giới nghệ sĩ biểu diễn.
Nhưng làm mới nghệ thuật đến đâu? Làm mới đến chừng nào là do tài năng của người nghệ sĩ ấy thuyết phục thì việc làm mới đó mới có ý nghĩa.
Trong ý nghĩa làm mới thơ, không phải cứ nghĩ ra được một thể thơ mới thì mới gọi là làm mới thơ, là Cách tân thơ. Không phải bất cứ lúc nào, hay bất cứ ai cũng có thể phát minh ra một thể thơ mới được, một trường phái mới được.

Bất luận một thể thơ nào cũng có thể làm mới. Làm mới ở đây là làm mới ngôn ngữ, làm mới thi pháp, làm mới hình thức, làm mới nội dung, ý nghĩa bài thơ.v.v…


Thơ vần
Lâu nay tôi làm thơ Tự do mà không làm thơ vần. Không làm thơ vần, không có nghĩa là bỏ hẳn, là đành đoạn chia tay. Lâu lâu không làm, lắm khi cũng nhớ. Như nhớ một người con gái đã xa. Đến một lúc nào ngồi buồn một mình, suy nghĩ vẩn vơ lại mong có dịp gặp lại.
Dẫu biết thơ vần như Lục bát, thơ 7 chữ hay 8 chữ Tiền chiến, nó giống như một cái hkhuôn bánh đã có sẵn. Cách làm thì giống như một thứ bột đã xay nhuyễn, nhồi bóp theo một loại công thức, rồi đổ vào khuôn, nó sẽ cho ta một loại bánh giống nhau. Tuy vật liệu có gia giảm để làm khác đi mùi vị, nhưng hình thức cái bánh thì cùng một loại. Để tránh đi nhàm chán, người làm thơ phải biết cách tân làm mới.
Nói ngán thơ vần thì nói vậy. Nhưng tình cờ được đọc một bài thơ vần hay thì cũng rất là thú vị. Do vậy mà duyên nợ với thơ vần, không thể nào bỏ được. Lúc buồn tình cũng thỉnh thoảng ngâm nga đọc lại, rồi khi có hứng thì cũng bằng bằng trắc trắc, tìm chữ gieo vần. Thế là ta lại tình ý với nàng vui vẻ, mà bấy lâu nay ta đã ngoảnh mặt như một kẻ phụ tình. Cứ thế cuộc đời làm thơ của tôi luôn luôn “diễn biến một cách phức tạp“.
Trong một bài tiểu luân về thơ trước đây tôi có viết rằng: Làm thơ Tự do. Thơ vần hay thơ THT, tùy theo thời gian hay nhu cầu cảm xúc của tâm hồn mà người làm thơ xử dụng một thể thơ nào cho phù hợp với tâm hồn cảm nhận vào thời gian lúc đó, chứ không nhất thiết là phải làm một thể thơ nào nhất định. Người làm thơ thường thay đổi tâm tánh, nghĩa là thay đổi cái tâm cảnh lúc làm thơ.
Nhà thơ Thanh Tâm Tuyền được coi như là nhà thơ Tự do. Ông là một trong những nhà thơ cách tân “cách mạng “nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam. Nhưng đến khi vào tù ông lại quay sang làm thơ vần. Khi sang Mỹ ông mới cho in một tập thơ vần lấy tên là: Thơ Ở Đâu Xa, là như vậy chứ không phải là một lý do nào khác.
Có lắm người suy luận theo ý mình và cho rằng ông làm thơ vần ở trong tù, mục đích là cho dễ nhớ, dễ thuộc! Hay là ông bỏ lối thơ Tự do hiện đại để quay trở lại với lối thơ cũ.


Làm nghệ thuật khó hay dễ
Có người hỏi tôi: Làm thơ có khó không? Tôi xin trả lời: Bất cứ là làm việc gì, nếu không biết thì đều khó cả, huống chi là làm nghệ thuật. Làm thơ là làm nghệ thuật. Vẽ tranh là làm nghệ thuật. Viết nhạc là làm nghệ thuật. Nhưng làm nghệ thuật phải cho ra là làm nghệ thuật, nghĩa là phải vẽ cho đẹp, viết cho hay. Làm nghệ thuật như thế thì khó. Rất khó. Còn nếu làm dở, thì dễ ẹc. Vì nó đâu phải là nghệ thuật!
Thế nào là thơ dở? Thơ dở trước tiên là một bài thơ không có hồn. Đọc lên không gây được cảm xúc. Nó bắt chước, rập khuôn, vần vè. Thứ thơ ghép chữ dễ dãi. Nó chắp vá những từ ngữ sáo mòn cũ rích với nhau sao cho có vần để người nghe được xuôi tai, câu trên khớp với câu dưới về bằng trắc, mà không cần một cảm xúc nào, một ý tưởng nào.
Còn thế nào là một bài thơ hay thì cũng khó nói, nó tùy cảm nhận nơi người đọc. Nhưng theo tôi, trước hết muốn làm được một bài thơ hay thì bài thơ đó phải đánh động được lòng người. Khi mình đọc bài thơ đó lên, bài thơ phải gây được xúc dộng, xúc động trong cảm xúc, vì người làm thơ có nhận được cảm xúc thì khi viết ra mới làm xúc động lòng người. Đánh đánh động trái tim người thưởng ngoạn. Nói tóm lại người thi sĩ càng nhận được nhiều cảm xúc nghĩa là họ đặt cả tâm hồn mình vào được bài thơ, thì người đọc càng xúc động. Thế là một bài thơ có thể gọi được là hay. Tuy nhiên để gây được xúc động lòng người, nó còn phải hội đủ nhiều điều kiện khác như, ý tưởng, ngôn ngữ, thi pháp, lý luận.v.v… Nói chung, muốn làm được một bài thơ hay, thì người thi sĩ phải có năng khiếu, tài năng và nghiêm túc trong cách làm. Nghĩa là anh ta không được phép dễ dãi với chính mình. Không được theo đuôi hay bắt chước phong trào nhất thời của quần chúng.
Sự dễ dãi làm thơ ở đây là cái hời hợt, cái lười biếng trong suy nghĩ của một người làm nghệ thuật thiếu tài năng, một người nghệ sĩ không chịu học hỏi. Đã là người nghệ sĩ tài năng, thì người nghệ sĩ đó phải chịu khó học hỏi suốt đời. Có học hỏi thì mới có sáng tạo. Sáng tạo ở đây là sáng tạo nên cái mới, cái tự mình nghĩ ra, tự mình làm ra, không giống những cái đã có, của những người đi trước. Nói như thế, không phải là chúng ta gạt bỏ không biết trân quí, gìn giữ những kinh nghiệm quí giá mà người xưa để lại.
Cái nguồn cảm hứng của một người có tài năng, là họ biết học tập cái ý tưởng của những danh nhân bằng cách đọc sách hay nghiên cứu tìm tòi nghệ thuật trong thiên nhiên vũ trụ. Trong cái khuôn mẫu Thượng đế ưu ái dành cho con người, mà kinh nhà Phật gọi là Tứ diệu đế: Gió – Lửa  – Nước – Đất đã có sẵn, như đã nói ở trên. Có như thế thì ta mới hiểu được sự mầu nhiệm của nghệ thuật. Nó là phần cứu cánh của tâm linh con người. Đó cũng là ý nghĩa sống của người văn nghệ sĩ trong các môn nghệ thuật.
Nghệ thuật còn là sự nhạy bén và chắt lọc những suy tưởng triết lý và văn học trong đó: nghệ thuật nghe, nghệ thuật nhìn và nghệ thuật ẩm thực. Tất cả đều là một thứ nghệ thuật sống. Đó là văn học, là linh hồn của loài người. Thứ tinh thần không thể thiếu, và tốt đẹp không gì sánh nổi.
Trong các loại hình nghệ thuật, thi ca là vị vua, là vương giả của các loại hình nghệ thuật. Vì thi ca là linh hồn cái đẹp của những cái đẹp. Nó là tiếng nói của ngợi ca. Chỉ có con người mới nhận thức được thi ca và biết dùng thi ca để ca ngợi sự vật, ca ngợi con người. Sự thanh khiết đó làm chuyển hóa vũ trụ và nó cũng dùng để làm thăng hoa con người. Trong muôn vàn cái đẹp của sự thăng hoa, thì Mỹ nhân là sự tột cùng trong hết thảy cái đẹp đê thi ca ngợi khen.
Ở đây chúng ta đang thảo luận về nghệ thuật thi ca. Về một người làm thơ và cái khó hay dễ trong việc làm thơ. Cái đề tài về thơ thì thật là đa dạng, thú vị và được nhiều nhà phê bình nói đến. Vì ở nước ta rất nhiều người thích làm thơ, nhưng lại rất ít người am hiểu về thơ, họ coi thơ chỉ là thứ gì dễ tiêu khiển, là một nghệ thuật dân gian tầm thường. Những người ít học những nông dân hay ngay cả đứa trẻ chăn trâu chăn bò, cũng có thể biết làm thơ, dù chỉ là vọc vạch vần vè. Nhưng để phân biệt được thơ hay vần vè thì họ lại không phân biệt được. Nghĩa là họ làm thơ theo một thứ quán tính nào đó đã có từ thủa ấu thơ.
Trong văn học Việt Nam, những nhà thơ có thực tài để chọn lọc ra được những bài thơ hay thì không nhiều so với số lượng người làm thơ rất đông.
Làm được thơ hay để được công nhận là một nhà thơ, không phải người làm thơ nào cũng có thể đạt được. Trước hết vị đó phải là một người có năng khiếu bẩm sinh, phải là người có học vấn, có kiến thức rộng, là người có tâm cơ, có tấm lòng nhân ái đối với tha nhân và sau hết phải là người yêu thơ, đến sống chết với thơ trong mọi hoàn cảnh. Thì đó mới gọi được là một nhà thơ có thực tài. Xứng đáng được người đời tôn vinh là thi sĩ.


Sáng tạo và nghệ thuật
Sáng tạo là tự mình nghĩ ra, tự mình làm ra, như đã dẫn ở trên. Đó là những người làm nghệ thuật.
Người sáng tạo thơ nhìn sự vật bằng trực giác, bằng sự đơn sơ tự nhiên như những bông hoa, đến độ thì nở ra, như khói sương u trầm đỉnh núi. Nó tự nhiên như nhiên, giống nụ cười của bé thơ. Người sáng tạo không biết lý luận và giải thích bằng lý trí khi anh ta, chị ta đang sáng tác. Lúc mà họ chỉ còn nỗi đam mê tột cùng, say đắm tột cùng. Nhà thơ lúc đó chỉ biết viết ra những gì vừa nảy sinh, trong phút giây linh diệu. Nỗi ngẫu hứng tuôn trào cuồn cuộn thác đổ, như một làn khói xanh, bềnh bồng như áng mây đang bay lượn vô tận trên trời. Những câu thơ, chữ nghĩa tượng hình trong tâm hồn người thi sĩ lúc đó hầu như bất diệt. Nó hiện ra, tuôn ra, tuôn trào khí phách không sao kìm giữ được. Lúc đó không có luật tắc, không có lý luận, chỉ có nỗi cô đơn thăm thẳm trong phút giây linh hiện ở trạng thái ngây ngất, say mê, dồn dập và ngông cuồng. Bởi chàng đang được uống một thứ rượu hạnh phúc tuyệt vời, không gì sánh được của trần gian.
Người làm thơ trực nhận sự vật, nên thở ra cái vừa lĩnh hội đã trực nhận. Cái mơ hồ lãng đãng kết nên một chữ, một câu, một đoạn. Trong khoảng không trừu tượng, nhiều khi lại đầy ắp tất cả. Nó chỉ muốn trào ra, phọt ra, chỉ muốn ban phát thứ gì đẹp nhất, thơ mộng nhất cho người vừa thụ nhận sự kết tụ, để họ viết ra cái nóng hổi từ con chữ được nâng nưu trân quí, mà thi sĩ gọi là thơ. Phút trừu tượng ấy hiện ra ở trong đầu rồi tỏa ra bát ngát ở trước mặt, ở chung quanh. Nó là một thực tại để sống, để bay lượn hiện hình. Nó đã trở nên một hiện thực sự thật, không còn là những hiện tượng vô hình. Nó là nguyên nhân làm nên người thi sĩ lúc bấy giờ, chứ tuyệt nhiên con người không thể nào làm nên hay tạo dựng nên thi sĩ. Cái thơ mộng không thể nào làm nên bằng lý trí được. Mà thơ mộng lại là cái chất của thi sĩ. Bởi tâm hồn của hắn được nuôi dưỡng bằng mật ong tình yêu. Bằng cỏ cây hoa lá, núi rừng và biển hồ, bằng khung trời lồng lộng. Và hơn thế nữa bằng sự tự do tuyệt đối! Tâm hồn ấy cũng được tạo thành bằng những âm thanh, bằng tiếng chim ca, tiếng suối reo, được hòa nhập vào cái đẹp của đất trời. Do vậy mà thi ca đã trở thành nghệ thuật làm đẹp cuộc đời. Chả thế mà nhà văn Dostoiepki của Liên Xô đã nói: “Cái đẹp cứu chuộc thế giới “.
Những câu thơ hay đã làm rung động lòng người, mà người thi sĩ là tác nhân làm cho thiên nhiên có nhiều sức sống hơn, sinh động hơn và đẹp đẽ hơn. Một đặc điểm nữa trong việc làm thơ là sự nhìn thấy. Nhìn thấy những gì ẩn náu trong sự vật, làm cho sự vật hiện hữu hơn, hiện thực hơn, bát ngát hơn trong cõi thường hằng của sự suy tưởng. Nó tạo nên sự rung động sự vật cả ngoài hiện thể. Những câu thơ do vậy mà người xưa thường xuất khẩu thành chương, trong lúc cao hứng ngâm vịnh. Cái nhìn xuyên suốt không phải lúc nào cũng được xuất hiện. Nó chỉ ban phát cho người có một tâm hồn lớn lao, cho người có thực tài soi rọi những tâm lực yêu thương vào trong cuộc sống.
Làm thơ cũng giống như yêu. Trong lòng cảm thấy thiết tha mãi, bâng khuâng mãi. Lúc nào tứ thơ cũng hiện hình như nhìn thấy người mình yêu ở trong sâu thẳm nhất, mênh mông nhất, dù người yêu ở nơi chốn nào không hiện diện. Ngay cả khi nhà thơ đang ngủ, hình ảnh cũng hiện về mê say. Tình yêu có khác chăng chỉ là sự nhớ thương. Vậy thì. Tình yêu là sự nhớ thương. Bởi hai người yêu nhau lúc nào họ cũng chỉ muốn sống bên cạnh người mình yêu, cho bớt nhớ thương! Nên xúc động của những người yêu nhau và thi sĩ thì cùng một tầng số.



Làm thơ và tim hiểu thơ
Hiểu về thơ đã, rồi mới làm thơ, hay làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ?
Thường thì người ta làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ, đó là phần đông ở Việt Nam chúng ta. Nó không giống những nước phương Tây khác là, họ tìm hiểu về thơ rồi, biết thơ là gì rồi, họ mới làm thơ. Nghĩa là họ phải được học thi ca (poestry) ở trường lớp trước khi họ cầm bút làm thơ. Do vậy thường những nhà thơ của họ là những người có học thức uyên bác, có năng khiếu, là những người có tài năng thực sự. Ngay cả những vị vua chúa thời xa xưa cũng rất trọng vọng nhà thơ, thi sĩ tài năng được mời vào cung đình để đọc thơ cho vua chúa và các quan chức nghe Thời nay nhà thơ ở phương Tây vẫn còn được mọi người kính trọng. Thơ được mọi thức giả xem ngang hàng với Kinh Thánh. Được đọc vào những ngày lễ trọng đại của Quốc gia.
Làm thơ rồi mới tìm hiểu về thơ. Chẳng là chúng ta nghe ca dao từ hồi nằm nôi. Bà ru, mẹ ru, chị ru. Thứ âm nhạc vần điệu nhịp nhàng, êm như gió thoảng, “ngọt như đường cát mát như đường phèn “, thấm nhuần trong dòng nước thánh tuổi thơ. Chả thế mà nó làm dịu đi niềm đau ngay lúc đứa trẻ mới chào đời. Lúc mà mẹ đi chợ xa chưa về kịp, lúc mà mẹ còn đang nhọc nhằn tỉa bắp trồng khoai ngoài đồng ruộng chưa về, lúc mẹ còn phải tảo tần buôn bán ngoài chợ. Niềm đau bé thơ là đói khát, hay khi trái gió trở trời. Những trận ban nóng ngút trời mà mẹ không biết làm sao để dỗ dành cho con nín, con ngủ, lúc đó thì câu ca dao của mẹ, của chị cất lên theo tiếng à ơi, vỗ về tâm hồn non nớt của con, của em. Và thế là thơ đã đưa con, đưa em đi vào giấc ngủ, vào cõi mộng mơ đầu đời. Thơ ca dao lúc đó là một phép lạ nhiệm mầu đi vào tiềm thức tuổi thơ, vỗ về tinh thần con trẻ, dỗ cho con trẻ khỏi khóc, dỗ cho con cười. Ca dao thần tiên hòa vào dòng sữa ngọt từ lúc con người vừa lọt lòng mẹ.
Và như thế, ca dao, câu hò ở nông thôn đã là bản sắc cho con người Việt Nam ngay từ thủa sơ sinh cho đến khi khôn lớn. Lúc biết đọc biết viết thì cái hồn thơ nó đã nằm sẵn nơi tình cảm con người, nó mai phục một cách tự nhiên, một cách không có ý thức nơi con người. Vậy những câu ca dao đầu đời là gì? Đó là những dòng thơ lục bát, những câu thơ lấy trong kinh nghiệm đời sống nghệ thuật dân gian thường ngày. Cái đời sống ấy thế mà nó có tác dụng giáo dục con người, bởi thời xa xưa hay cận đại, mấy gia đình nghèo có tiền cho con đến trường đi học. Phải là những gia đình giàu có hay con nhà khá giả mới có tiền cho con đến thày Đồ học lấy dăm ba chữ Thánh hiền. Đa số những con nhà dân giả chỉ biết dạy con học đạo làm người bằng lời khuyên, bằng gương sáng của người xưa và bằng ca dao tục ngữ, bằng câu hát, câu hò .
Những câu ca dao như: Công cha như núi Thái sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Hay, Có công mài sắt có ngày nên kim. Hay, Không thày đố mày làm nên.v.v… không biết có từ bao giờ. Có lẽ nó nó được lưu truyền từ lâu lắm. Nó có từ hàng ngàn năm rồi cũng nên. Cho nên người có học hay người không có học cũng biết thế nào là ca dao, tục ngữ và nôm na họ gọi đó là thơ. Đến khi có dịp ngẫu hứng, hay lúc “tức cảnh sinh tình”, thì người có năng khiếu, cứ theo vần bằng trắc mà làm thơ. Lúc đầu thì vò vẽ bằng trắc sao cho ăn khớp với nhau nhịp nhàng. Cứ câu trên bằng thì câu dưới trắc, theo mẫu ca dao đã có sẵn, chẳng cần biết thế nào là niêm luật. Còn hiểu thế nào là một bài thơ thất ngôn, ngũ ngôn hay lục bát thì rồi dần dà sẽ biết sau. Do vậy số rất đông người Việt Nam làm thơ vì đã được thấm nhuần ca dao mẹ từ trong máu thịt.


Thơ tình
Những người mới bắt đầu học làm thơ, thường thì họ hay làm thơ tình. Có phải làm thơ tình dễ làm không? Có thể. Khi đến tuổi dậy thì, trai gái yêu nhau muốn tỏ tình, ai mà không e thẹn run rẩy khi gặp cái người mà mình để ý, cái người làm mình sợ hãi. Cái người lỡ làm mình thương trộm nhớ thầm. Nhưng biết thố lộ cùng ai? Thôi thì ta làm ít câu thơ cho đỡ sầu “vạn cổ “rồi lén đem trao nàng vậy! Nếu sợ quá không biết nhờ cậy ai hay không dám đưa trao, thì đành bạo gan đánh liều chứ biết làm sao, thôi thì ta lén bỏ trộm bài thơ vào cặp của nàng lúc giờ nàng ra chơi!
Tình yêu là mục đích và cứu cánh của con người đi vào đời sống. Vậy thì tình yêu là ý nghĩa của cuộc sống. Là nhu cầu cần thiết mà ai cũng phải khát khao. Một nhu cầu tâm linh cần được nuôi dưỡng để vượt thoát đớn đau tìm về cội nguồn hạnh phúc. Nó đương nhiên lớn lên theo sự phát triển thể chất và tinh thần, bởi nó muốn vượt thoát cô đơn, nó muốn được ve vuốt, mơn trớn không những của người thân yêu cốt nhục của mình, mà của cả tha nhân đồng loại. Đến một lúc nào đó, một phút giây nào đó nó muốn yêu thương và muốn được yêu thương. Tình yêu đến với con người ngay trước khi con người ý thức được về tình yêu. Nó đương nhiên như một nhu cầu sinh lý của đời sống.
Cái sinh linh khi còn nằm trong bụng mẹ, lớn dần lên với tình mẫu tử cho đến khi nó ra đời, cái nhu cầu yêu thương ấy đã được ôm ấp nâng niu và được bảo vệ không ai có thể tách rời được tình yêu thương mẹ con. Cho đến tuổi thành niên, tình thương từ cha mẹ, anh em, chuyển sang một thứ tình yêu thương khác là tình yêu trai gái. Thế là những vần thơ khóc gió thương mây thành hình. Lúc đó đôi mắt của họ dõi theo một bóng hình nào mà họ thấy bâng khuâng, rung động rôi tương tư không phút nào nguôi. Những vần thơ tương tư đó bật ra, bởi một con tim đau khổ và sung sướng. Thơ bắt đầu đến với người muốn làm thơ từ đó.


Thơ và đạo
Tiến trình diễn tiến theo thời gian, người làm thơ bắt đầu làm thơ tình, nay đã có nhiều suy tư hơn, nhiều niềm đau hơn và nhiều kinh nghiệm hơn, tự nó dần chuyển sang một trạng thái suy tư về cuộc sống, về kiếp nhân sinh. Cái đòi hỏi đương nhiên của con người, đi từ tình yêu trai gái, tình thương ruột thịt tới một đời sống trọn vẹn hơn đó là một nhu cầu. Và bên kia cái đời sống đang cần, đi tìm câu trả lời và lý giải là một mong muốn cấp bách, bao la như một bầu trời. Con người cứ thắc mắc, cứ ưu tư, cứ đòi hỏi, mà nhu cầu trả lời về kiếp nhân sinh, cái kiếp cụ thể mà mình đang sống, thì không sao thỏa mãn được. Rất giới hạn. Con người càng lý giải và càng tìm cách trả lời thì những thắc mắc, những vấn nạn càng gia tăng. Càng lúc câu hỏi càng hóc búa, cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay cũng không thể trả lời thỏa đáng được. Vậy thì chỉ có thi ca chỉ có thơ, may ra mới giải quyết được phần nào cái vấn nạn, cái lý giải của sự tồn sinh của con người, mà mọi triết lý, mọi tư tưởng, văn chương, các loại hình nghệ thuật, hay khoa học trên trần gian này, xem ra bất lực! Tựu trung chỉ còn lại là một nguồn rung động là Thơ và Đạo (đạo lý làm người). Tiếng hát bâng khuâng của ngàn năm với thiên nhiên mưa nắng làm hạnh phúc cho đời sống tâm linh con người.


Kết luận
Thơ bắt đầu tri kỷ với con người như thế và kết thúc với tri kỷcủa nó là như thế. Cái học của người làm thơ, hay cái học vấn của con người nói chung. Cái cốt lõi không hẳn là tri thức, là kiến thức mà là cái đạo lý làm người.
Cái đạo lý làm người mới xem qua thì thấy dễ học hơn là cái kiến thức chuyên môn về kỹ thuật của ngành học. Vì muốn nhận được sự hiểu biết có tri thức thì phải đến trường, đến lớp để học tập. Phải có điều kiện về tài chánh tiền bạc, sức khỏe.
Còn cái đạo lý học làm người thì ai cũng có thể học được, không cần phải đến trường lớp. Nhưng để tiếp thu được cái đạo đức làm người đó. Thì lại rất là khó khăn. Nhiều người học hành đã thành đạt, làm ông nọ bà kia, tiền bạc dư giả, giầu có. Nhưng cái đạo lý làm người. Học không cần phải tốn tiền, thì chưa học được. Có khi đến hết đời, người đó vẫn trơ tráo làm một kẻ bất nhân!
Cái loại bất nhân có học thức lại còn gây nguy hiểm hơn loại bất nhân không có học. Suy cho cùng, cái đạo lý làm người cũng xuất phát từ lòng yêu thương con người mà ra. Nếu không có tình yêu thương thì sẽ không nẩy mầm ra được đạo lý, sẽ không hiểu được cách làm một con người cho ra một con người, sẽ không hiểu được sự cao quí của con người hơn những sinh vật nào khác.
Cách thể hiện lương tri đành rằng là do sự giáo dục, là do được giáo dục. Nhưng cái đạo lý và kiến thức phải đi song hành thì mới trọn vẹn. Bằng không thì cách chọn lựa, làm một con người có đạo đức vẫn xứng đáng hơn, làm người hơn, là làm một người có bằng cấp, có học vấn mà không có đạo đức. Vì đạo đức làm người là một hành vi của một tinh thần cao thượng. Đời sống vật chất ta có, nó phải gắn liền với đời sống tinh thần cao cả, thì mới gọi được là một đời sống con người đầy đủ. Đời sống đầy đủ vật chất và tinh thần là một là như vậy.

Thơ và đạo bao gồm là nghệ thuật. Nghệ thuật hay cái đẹp CHUYỂN HÓA Thế Giới./.



Nguồn : © Đàn Chim Việt
http://www.danchimviet.info/archives/31083
<bài viết được chỉnh sửa lúc 30.06.2011 00:28:57 bởi Huyền Băng >

Huyền Băng
  • Số bài : 3826
  • Điểm: 11
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.09.2005
  • Nơi: rừng thu 1953
RE: Thi ca và nghệ thuật - Tác giả: Quỳnh Thi - 30.06.2011 00:31:28
0
Mời các bạn tham khảo một số vấn đề niêm luật của Thơ đường luật qua
 
 
 (Võ Nhựt Ngộ - Lá Chờ Rơi)
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.07.2011 17:29:49 bởi Huyền Băng >