Trích đoạn: TÂY_CUỒNG
Trích đoạn: lá chờ rơi
Nói cho rõ ràng thì dông dài chút như sau :
a/ thơ Tứ Tuyệt có hai phép Niêm chính thức là 1-4 2-3 tạm mô tả là phép niêm « có đôi » và 1-3 2-4 tạm mô tả là phép niêm « xen kẻ ».
b/ bài thất ngôn bát cú Đường thi gồm hai bài Tứ Tuyệt nối nhau một trên một dưới
c/ phép niêm 1-8 2-3 4-5 6-7 chỉ dùng có một loại Tứ Tuyệt theo phép niêm « có đôi » là 1-4 2-3 để làm một bài thất ngôn bát cú.
d/ còn các thi gia đời Đường thì dùng cả hai phép niêm của thơ Tứ Tuyệt để làm bài thất ngôn bát cú. Do đó nên bài thất ngôn bát cú của thi nhân đời Đương có thể khác nhau 4 cách như sau :
1. TT trên 1-4 2-3 TT dưới 1-4 2-3 (đây là phép niêm của dải số 1-8 2-3 4-5 6-7)
2. TT trên 1-4 2-3 TT dưới 1-3 2-4 (thi gia đời Đường dùng+ 1 bài của Nguyễn Du)
3. TT trên 1-3 2-4 TT dưới 1-4 2-3 (thi gia đời Đường dùng+ vài bài thơ Nôm)
4. TT trên 1-3 2-4 TT dưới 1-3 2-4 (thi gia đời Đường dùng)
Tất cả 4 phép niêm trên đây của bài thất ngôn bát cú Đường thi đều là những phép niêm có qui củ, chiếu theo hai phép niêm của thơ Tứ Tuyệt.
Còn những bài đáng gọi là « thất niêm » hay « tháo niêm » là khi nào mà sự « sai niêm » hiện ra một cách « vô chừng », ví dụ như một bài Tứ Tuyệt mà câu 1 niêm với câu 2, hoặc câu 3 niêm với câu 4 chẳng hạn, hoặc giả vừa sai niêm vừa sai luật « nhì tứ lục » chẳng phân minh, khiến cho sự « sai niêm » « thất luật » nằm lung tung bất cứ nơi đâu.
Có nhiều lúc hứng thơ đưa đến cho ta những tứ thơ gồm những từ Bằng-Trắc nào đó, mà khi viết thành câu, tình cờ ta lại lọt vào một trong những phép niêm trên đây mà không hay, vì âm điệu của câu thơ vẫn hài hòa êm tai. Chỉ đến khi có người bảo là thất niêm, ta xem lại thì mới thấy là nó không đúng với dải số 1-8 2-3 4-5 6-7.
Trường hợp điển hình nhất là bạn Sao Mai, lúc mới học chơi thơ Đường Luật, đã làm liền tù tì 4 bài thơ đầu tiên sai với dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, nhưng lại trúng cả vào những phép niêm nêu trên đây của thi gia đời Đương.
Hôm nay thì là trường hợp của Thảo My, còn vài hôm trước là trường hợp của Đồng Lão.
Những bài thơ đó bị coi là thất niêm chỉ vì nó khác với phép niêm của dải số 1-8 2-3 4-5 6-7, chứ không phải là do một khuyết điểm nào nhất là về âm thanh. Nhưng nó sẽ bị sửa lại hoặc bỏ đi. Tôi nghĩ rằng đó là một sự mất mát lớn lao, lấy làm tiếc, nên trong bài viết về việc ấy tôi lấy tựa đề là « Gánh vàng đem đổ sông Ngô ».
Còn trong một bài mới viết trước đây tôi có nói là chúng ta không có nhu cầu « tranh luận » về những phép niêm. Mỗi người làm theo ý mình thích thì có đụng chạm gì đến ai đâu.
Phần tôi, bài tôi viết gồm một phần « nhận định » và một « kết luận » rút từ sự nhận định ấy.
Nếu nhận định mà « sai » thì đương nhiên kết luận phải sai rồi. Nhưng có khi nhận định đúng mà kết luận vẫn sai.
Nên tôi chỉ mong nghe được những lời cao luận cho thấy cái sai để mà sửa.
..................
Kính chào bác Lá Chờ Rơi.
Xin cảm ơn bác về những lời giảng giải trên.
Theo tôi được biết, thơ Đường Luật xưa nay chỉ có một phép niêm duy nhất là 1-4,2-3,5-8,6-7. một bài tứ tuyệt có thể tách từ một bài bát cú nên niêm luật cũng theo như vậy. Những bài tứ tuyệt không theo niêm luật này là loại tự do, loại này rất phổ biến thời Đường. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói một bài Đường Luật bát cú được ghép từ hai bài tứ tuyệt cả. Nếu theo cách này, ta sẽ có thêm loại thơ Đường Luật với phép niêm là 1-3,2-4,5-7,6-8.(vì được ghép từ 2 bài tứ tuyệt với phép niêm 1-3,2-4)
Cần biết rằng, Lý Bạch (thời thịnh Đường) và một số thi nhân khác không thích làm thơ Đường Luật vì sự gò bó của nó mà thích làm loại thơ tự do (loại này phép niêm có thể là 1-4,2-3 hoặc 1-3,2-4) Vì vậy những bài như bác Lá đã lấy ví dụ có thể nói là một bài Đường Luật bát cú bị thất niêm. Như bài “Hoàng Hạc Lâu” Thôi Hiệu là bị thất luật, nhưng vì hay nên vẫn tồn tại.
“tích nhiên dĩ thừa hoàng hạc khứ”…
Như vậy ta phải thừa nhận những bài thơ của ông cũng như những người khác là “thất niêm” hay “thất luật”, chứ không có phép niêm luật này.
Đến thời Đỗ Phủ (thời trung Đường) thơ Đường Luật mới được Đỗ Phủ đưa lên đỉnh cao và mới được nhiều người làm, trong đó có Giả Đảo nổi tiếng với bài “Nhị Cú”
“Nhị cú tam niên đắc
Nhất ngâm song lệ lưu”…
Còn thơ Đường Luật mà chúng ta đang làm hiện nay chính là thơ Đường luật thất ngôn bát cú, với phép niêm duy nhất là 1-4,2-3,5-8,6-7. Nếu làm không đúng như vậy được coi là “thất niêm”. Tất nhiên mọi người có thể làm bất cứ kiểu nào họ thích, chỉ cần thơ hay thì sẽ được mọi người biết đến, nhưng cần phân biệt được thơ Đường Luật là gì, thơ nào không phải Đường Luật và bài thơ nào là thất luật, thất niêm, chứ không phải làm kiểu nào cũng gọi là thơ Đường Luật.
Nếu chỉ dựa vào những bài thơ của các thi nhân xưa mà đưa ra những niêm luật mới cho thơ Đường Luật thì làm cho thơ Đường luật trở nên quá phức tạp.
Bác Lá có thể chỉ cho văn bản hay sách nào công nhận phép niêm của thơ Đường Luật như bác đã nói không? (thơ Đường Luật chứ không phải thơ Đường, vì thơ Đường thì đủ loại, chỉ cần được làm vào thời Đường là thơ Đường). Tôi cũng chỉ mới đọc qua vài cuốn nên hiểu biết còn nông cạn. Mong bác chỉ giáo.
Kính!
Tây_Cuồng
Thân chào bạn Tây_Cuồng,
Như trên tôi đã nói : nếu sự khác biệt là vì « thất niêm thực sự » thì khi xảy ra nó phải có tánh cách « vô chừng », ví dụ như câu1 niêm với câu2, hoặc câu3 niêm với câu4, còn đàng nầy sự « khác biệt » nằm trong qui cũ hẳn hoi, và nó tương ứng với hai bài tứ tuyệt theo phép niêm tự do của riêng nó.
Sự nhận xét nầy của tôi không có
« văn bản hay sách nào » qui định. Nhưng các bài thơ của thi gia đời Đường đã hùng biện nói lên điều ấy.
Còn bạn cho rằng :
… thơ Đường Luật mà chúng ta đang làm hiện nay chính là thơ Đường luật thất ngôn bát cú, với phép niêm duy nhất là 1-4,2-3,5-8,6-7. Nếu làm không đúng như vậy được coi là “thất niêm”. Bạn nói là hể « khác đi » với phép niêm
1-4,2-3,5-8,6-7 thì gọi là thất niêm.
Nếu thế thì chính bạn là người cần chỉ ra
« văn bản hay sách nào qui định
phép niêm của thơ Đường Luật là
1-4,2-3,5-8,6-7. Nếu chịu khó tìm, có lẽ sẽ có một văn bản của thời kỳ « khoa cử » qui định như vậy. Nhưng từ đời Đường thì tôi sợ rằng không có.
Hoặc nếu bạn cho rằng có khuyết điểm nào đó sẽ xảy ra nếu ta không theo phép niêm
1-4,2-3,5-8,6-7 . Ví dụ như âm điệu chối tai, ngọng ngịu hay gì gì khác nữa v.v. thì xin mời bạn cứ thẳng thắn cho biết, để mọi người cùng nhận ra mà tránh.
chắc bạn cũng đồng ý với đoạn văn sau đây của Quách Tấn. Ông ấy cho rằng :
« Đường luật không phải do một cá nhân hay một nhóm thi nhân cao hứng đặt ra theo sở kiến, sở thích của mình, mà chính là sự đúc kết những kinh nghiệm kỹ thuật lâu đời đã thành công, và điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ. » Và một đoạn khác thì nói :
« Có người trông thấy những bài thơ Thất Niêm Thất Luật phần nhiều là của các danh gia, cho nên bảo « Đại gia văn chương bất câu niêm luật ». Sự thật, niêm luật đối với người đã thạo nghề chẳng khác những đường mòn trong xóm đối với người địa phương, muốn đi cho đúng có khó khăn gì. Thiết tưởng sự Thất Niêm Thất Luật kia là cố tình chớ không phải sơ ý. Tất có lý do. » Quách Tấn không đồng ý cho đó là những bài Thất Niêm, vì có nhiều mà lại của các danh gia. Quách Tấn nghĩ rằng phải có lý do chính đáng nào khác, mặc dầu chưa thấy.
Do đó nên có thể đặt giả thuyết rằng lúc « điển chế những thành công ấy làm khuôn phép chung cho làng thơ » thì người phụ trách việc ấy không nhận ra được hết toàn bộ các phép Niêm được thi gia đời Đường sử dụng, nên chỉ lấy hai phép Niêm được đa số các bài thơ dùng đến là
1-4,2-3,5-8,6-7 mà thôi. (Vậy nên nếu sự « điển chế » được thực hiện chính xác và đầy đủ hơn thì rất có thể là chân lý nằm ở phía bên tôi đấy bạn ạ !)
Còn trong hiện tình, để giải thích những bài kia thì một nhóm bảo là « Đại gia văn chương bất câu niêm luật » ; một nhóm khác tìm cách gán cho những bài thơ ấy là thơ « cổ phong ». Và họ gượng ép đưa bài Vịnh dế duổi của Tú Quì ra làm mẫu cho thơ « cổ phong ».
Chúng ta cũng nên xem qua sự việc này :
VỊNH DẾ DUỖI Kiến chẳng kiến voi chẳng voi Ðời sanh dế duổi cũng choi choi
Ngắn cánh lên trời không đủ sức
Co tay vạch đất cũng khoe tài
Mưa tuôn gió tạt lên cao ở
Lửa bỏng dầu sôi nhảy đến chơi
Quân tử có thương thời chớ phụ
Ðể cho bay nhảy thử mà coi.
Tú Quì Tạm thời khoan nói đến câu 1, sẽ nói đến sau. 1. Theo định nghĩa thì thơ cổ phong có thể dùng nhiều vần. Tại sao chọn bài này chỉ dùng có một vần ? 2. Theo định nghĩa thì thơ cổ phong có số câu thay đổi là 6, 8, 10 hoặc 12. Vậy tại sao lại chọn một bài có đúng 8 câu như thơ THBC Đường Luật ? 3. Theo định nghĩa thì thơ cổ phong không cần phải có đối. Vậy tại sao lại chọn một bài có đối ngẩu nghiêm minh ? 4. Theo định nghĩa thì thơ cổ phong không cần theo niêm luật. Khoan nói đến Niêm. Vậy tại sao chọn một bài (trừ câu1 sẽ nói sau) mà các câu đều có « nhì tứ lục » phân minh ? Một bài thơ làm mẫu cho thơ cổ phong mà lại ngoại lệ không mang một đặc điểm nào của thơ cổ phong thì thật là lạ quá.
Về câu1 :
theo nguyên tác thì bài thơ này làm theo cách « lục ngôn thể » nên câu đầu chỉ có 6 chữ.
Ai cũng hiểu ý tác giả muốn nói là : con dế chẳng nhỏ xíu như con kiến mà cũng chẳng to sồ như con voi.
Thế nên muốn viết câu1 cho đủ 7 chữ thì chỉ cần thêm chữ « mà » vào giữa :
Kiến chẳng kiến mà voi chẳng voi là có một câu thơ đúng luật bình thường.
Nhưng người ta không làm thế, mà lại thêm một chữ « phải » vào ở nơi khác :
Kiến chẳng phải kiến voi chẳng voi để làm cho câu1 thất Luật, rồi gán cho bài ấy là thơ « cổ phong ». Và lấy đó làm mẫu để xếp những bài Đường Thi có Niêm « khác với » phép niêm
1-4,2-3,5-8,6-7 là thơ cổ phong.
Sự nhận định của tôi trên những dữ kiện thực tế là như thế. Tôi sẵn sàng nghe những cao luận cho thấy sự sai lầm.
Nhưng thời « khoa cử » đã qua, nên tôi thấy rằng không có nhu cầu để tranh luận về Niêm Luật của thơ TNBCDL mà chúng ta đang chơi.
Ai dùng phép nào theo sở thích của họ thì có chi mà người khác phải khó chịu ?
Ngoài ra, với chữ ký của bạn, tôi vẫn không biết có phải bạn thuộc phái Cổ Mộ hay không. Tôi đã có dịp tiếp xúc với phái này, họ làm thơ theo phép niêm
1-4,2-3,5-8,6-7 rất giỏi và rất tôn trọng vấn đề niêm luật.
Tuy nhiên nếu bạn thực sự thuộc môn phái này, thì tôi ngại rằng vì sự khiêm tốn, tổ sư Lâm Triều Anh có thể sẽ không mấy bằng lòng về chữ ký của bạn.
Thân mến chào bạn.
Lá chờ rơi
Nhà thơ Đỗ Phủ bạn nêu ra cũng có một bài « khác niêm » như sau :
HOÀI CỔ TÍCH - KỲ NHỊ
Dao lạc thâm tri Tống Ngọc bi Phong lưu nho nhả diệc ngô sư Trướng vọng thiên thu nhất sái lệ Tiêu điều dị đại bất đồng thì Giang san cố trạch không văn tảo Vân
vũ hoang
đài khởi
mộng tư
Tối
thị Sở
cung câu
dẫn diệt
Châu
nhân chỉ
điểm đáo
kim nghi.
Đỗ Phủ NHỚ CHUYỆN XƯA – BÀI HAI Tống Ngọc sầu thương cảnh rụng rơi Phong lưu nho nhả bậc thầy tôi Nghìn thu tưởng nhớ còn rơi lệ Một cảnh tiêu sơ dẫu khác thời Sông núi nhà xưa văn vẻ đó Mây mưa đài cũ mộng mơ thôi Thương thay cung Sở tiêu tan hết Nơi lái thuyền xưa chỉ vẫn ngờ. Đinh Vũ Ngọc Ngoài ra thật sự là “phá cách” tôi chỉ gặp có bài Ðường Thi sau đây :
VÕNG XUYÊN BIỆT NGHIỆP
Bất
đáo Đông
sơn hướng
nhất niên
Qui
lai tài
cập chủng
xuân điền
Vũ
trung thảo
sắc lục
kham nhiễm
Thủy
thượng đào
hoa hồng
dục nhiên
Ưu lậu tỳ khưu kinh luận học (4 câu chót theo cách lạ) U lũ trượng nhân hương lý hiền Phi y đảo tỷ thả tương kiến Tương hoan ngữ tiếu hành môn tiền. Vương Duy
BIỆT THỰ Ở VÕNG XUYÊN Đông Sơn chẳng đến trọn năm nay Về gặp mùa xuân kịp cấy cày Cỏ dại trong mưa xanh biếc biếc Hoa đào trên nước đỏ hây hây Tỳ hưu học đạo bàn kinh kệ Bô lão làm gương giữ tháng ngày Khoát áo trở giày tìm gặp bạn Nói cười trước cổng thật vui thay ! Đinh Vũ Ngọc T.B.
Bạn Tây_Cuồng thân mến,
Lúc viết đoạn trên, tôi phớt lờ không nói đến sự khác biệt giữa dải số bạn đưa ra (
1-4,2-3,5-8,6-7) và dải số mà giới chơi thơ Đường Luật áp dụng
(
1-8,2-3,4-5,6-7), vì hai dải số cùng nói về phép Niêm 1-4 2-3 của thơ Tứ Tuyệt.
Nhưng giờ nhìn kỷ lại, thì có một điểm khác biệt quan trọng khiến bạn có thể sẽ bị giới bảo thủ phản đối kịch liệt.
Vì với dải số của bạn :
1-4,2-3,5-8,6-7 thì hai bài Tứ Tuyệt trên và dưới được phép mỗi bài theo một Luật Bằng-Trắc khác nhau.
Như hai bài dưới đây, với dải số (
1-8,2-3,4-5,6-7) thì bị coi là thất niêm, do cặp niêm
4-5.
Còn với dải số của bạn (
1-4,2-3,5-8,6-7) thì nó lại là đúng niêm :
VĂN LÂN GIA LÝ TRANH
Bắc đẩu hoành thiên dạ dục lan Sầu nhân ỷ nguyệt tứ vô đoan Hốt văn họa các Tần tranh dật (Tri thị lân gia Triệu nữ đàn ) thất niêm đối với dải số (
1-8,2-3,4-5,6-7)
(Khúc
thành hư
ức song
nga liễm ) đúng niêm với dải số (
1-4,2-3,5-8,6-7)
Điệu
cấp giao
liên ngọc
chỉ hàn
Ngân
thược trùng
quan thính
vị tịch
Bất
như miên
khứ mộng
trung khan.
Từ An Trinh NGHE ĐÀN TRANH NHÀ HÀNG XÓM Bắc đẩu ngang trời đêm sắp tan Buồn trong trăng sáng ý mơ màng Chợt nghe gác họa âm Tần vọng Mới biết nhà bên gái Triệu đàn Khúc trọn hẳn chau đôi mắt ngọc Điệu mau e buốt ngón tay vàng Lắng nghe then khóa còn chưa mở Ngủ quách may ra mộng gặp nàng. Đinh Vũ Ngọc HÀ TIỆN
Giàu thì ba bữa khó thì hai Lần lữa cho qua tháng thiếu đầy Nón đổi lá ngoài quần đổi ống (Dép thay da mặt túi thay quai ) thất niêm đối với dải số (
1-8,2-3,4-5,6-7)
(Dặn
vợ có
cà đừng
gắp mắm ) đúng niêm với dải số (
1-4,2-3,5-8,6-7)
Bảo
con bớt
gạo bỏ
thêm khoai
Thế
gian mặc
kẻ cười
hà tiện
Ta
chẳng phiền
ai chẳng
lụy ai.
Nguyễn-Minh-Triết Chúc bạn vui đở những cú tấn công của các bạn đồng môn.
Thân mến.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 27.02.2008 17:17:11 bởi lá chờ rơi >