Câu Lạc Bộ TRI ÂM

Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 15 của 36 trang, bài viết từ 421 đến 450 trên tổng số 1076 bài trong đề mục
Tác giả Bài
dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 24.01.2012 01:29:19
0



KHAI BÚT TÂN XUÂN
 
 
 
cội tùng bách tuế nghinh xuân mới


tổ quốc sơn hà mạch sống khơi
 
Nam Phương minh ngọc ngời thiên địa
 
Bách Việt rồng tiên tụ nghĩa nhân
 
xuân khứ xuân lai xuân bất tận
 
qua thời mạt vận tất phồn vinh
 
tha hương hào kiệt nghìn phương tựu
 
vạn hướng anh thư liệt nữ tề
 
hợp chí tâm hùng về cố quốc
 
Nhâm Thìn long hội cuộc phò hưng
 
thống khổ điêu linh ngừng Bắc họa
 
thái bình Nam Quốc thỏa an hòa
 
 
 
mồngmộttếtnhâmthìn.đấtthahương.Jan.23.2012
 
 



 



 



 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.01.2012 01:35:03 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 24.01.2012 08:15:49
0

.
http://www.box.com/s/ijpxsh620v1ocpp0tx0e

ĐẦU XUÂN LỄ CHÙA
thơ Trúc Lan . phổ nhạc & trình bày Dzuylynh .
Album Trao Nhau một Thuở Xuân Thì _ Jan.23.2012


Xuân lại đến, mai đào đua nở
Lễ chùa này chạnh nhớ năm xưa
Phật Như Lai chiều mưa còn đó
Vọng lời kinh, tiếng mõ trong chùa

Cửa Thiền cơn gió lùa hoang dã
Trông quẻ xâm tình đã sang ngang
Tình yêu em mới lớn dịu dàng
Chuông ngân nga, lệ rướm hai hàng

Cành đào xưa nụ tàn rơi khẽ
Dưới hiên chùa lẻ bóng đôi chim
Lời chim ca lệ tình hoen má
Cá im hơi ghềnh đá rêu phong
.
Hồ liên hoa nụ hồng xơ xác
Cánh bướm vàng ngơ ngác bay sang
Mái lầu chuông hoang phế đỏ vàng
Nến lất lây trần thế u buồn
.
Trầm lò hương gió luồn heo hút
Khói lung lay cành trúc nhánh lan
Sầu tương tư lệ tràn thương nhớ
Dấu yêu ơi! sao nỡ chia lìa...
.
Trúc Lan
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.01.2012 08:17:35 bởi dzuylynh >

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 26.01.2012 07:38:26
0
Sông Hương về quê vừa ra có lời chúc xuân muộn đến với quý thi hữu. Chúc quý thi hữu cùng gia quyến năm mới vạn sự an lành. Chúc CLB Tri âm mãi mãi là nhưngc người bạn tri âm.


Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 27.01.2012 02:27:00
0
CHÀO MỪNG SÔNG HƯƠNG TRỞ VỀ SAU CHUYẾN THĂM QUÊ !
 


http://www.box.com/s/zxl23hsdmxtbjuna77gl
 

Em về đi thôi ...


thơ Hòang thu Diệp. nhạc&trìnhbày Dzuylynh
Jan26.2012_album Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì

Vuốt ngược làn tóc mây Nghiêng chiếc bóng đổ dài
Trùng dương xa xanh thẳm Nước trời vai sánh vai
Rưng rưng bờ cát mịn Biển phím chìm chân mây
Nghe heo may lành lạnh Hoàng hôn nhẹ buông dần
Nghe heo may lành lạnh Hòang hôn nhẹ buông dần...
Cùng em con sóng nhỏ Thì thầm bao ước mơ
Bềnh bồng nương cánh gió Bọt trắng sủi ven bờ
Sương chiều chầm chậm rơi Nắng đã nhạt lưng trời
Cánh buồm em ngóng đợi Vẫn mịt mờ dặm khơi!
Về thôi! Về thôi em... Sầu tư một kiếp người
Vùi sâu trong vỏ ốc Bên biển đời chơi vơi
Về đi... về đi em... Phù du một kiếp người
Sẽ tan như bọt biển Trên sóng đời chơi vơi
Về đi, về đi thôi ! Về đi... về đi thôi!
Về đi ! Về đi thôi... Về đi ! Về đi thôi !

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 28.01.2012 01:25:09
0
 
Đầu Xuân Lễ Chùa


                  
 
 
http://www.box.com/s/sfpjmispjycciijx44cv

diễn ngâm: hoalinhlan
 Album Tao Đàn Thi Các

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 02.02.2012 01:51:02
0
 

VIẾT LẠI TÊN BÁCH VIỆT
Nguyễn Đại Việt

Sau khi hợp lực đánh đổ nhà Tần năm 206 trước Công Nguyên (TCN), Lưu Bang bất thần xé bỏ hòa ước Hồng Câu xua quân bao vây Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ và diệt nước Sở năm 202 TCN. Cùng năm đó, ông lên ngôi hoàng đế sáng lập ra nhà Hán còn gọi là nhà Tiền Hán hay nhà Tây Hán. Về chữ viết, Hán triều tiếp tục chính sách của Tần Thủy Hoàng trong việc sửa đổi và tiêu chuẩn hóa một loại cổ ngữ thành một hệ thống chữ viết gọi là Hán ngữ.

Trong khoảng từ năm 109 đến năm 91 TCN, Tư Mã Thiên, một sử gia nổi tiếng đời Tây Hán, dùng Hán ngữ biên soạn bộ Sử Ký dài 130 tập, theo chú thích trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, ông là người đầu tiên viết hai chữ Bách Việt trong tập Ngô Khởi Truyện của bộ Sử Ký nổi tiếng đó. “Bách Việt” được dịch sang Hán ngữ hiện đại là 百 越.



Hình 1: Chữ “Việt” (bên trái) viết theo lối chữ Triện thời Tây Hán. Chữ “tẩu” (thứ hai từ trái sang phải) dùng để xác định ý nghĩa và chữ “người cầm qua” (bên phải) dùng xác định cách phát âm. Chữ cuối phát âm là “Việt” có hình tượng giống như một người cầm cái qua (戈). Trong Hán ngữ chữ “qua” (戈) có nghĩa là “cái mác” hoặc “chiến tranh”.

Một bộ sử khác do Ban Bưu khởi xướng, bộ Hán Thư (漢書) gồm 100 tập, cũng được soạn thảo vào thời Tây Hán chép rằng:

“Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Hội Kế (Cối Kê), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình.”

Bách Việt mà hai bộ Sử Ký và Hán Thư đề cập đến chính là chủ nhân của vùng đất rộng lớn, bao trùm toàn cõi Hoa Nam và miền Bắc Việt Nam ngày nay; ngoại trừ Lạc Việt (Việt Nam) các thị tộc Bách Việt khác đều bị Hán tộc tiêu diệt, đồng hóa và chiếm đoạt hết lãnh thổ.

Theo Hán ngữ hiện đại, tên các thị tộc của Bách Việt được viết là 於 越 (Ư Việt), 揚 越 (Dương Việt), 閩 越 (Mân Việt), 南 越 (Nam Việt), 東 越 (Đông Việt), 山 越 (Sơn Việt), 雒 越 (Lạc Việt), 甌 越 (Âu Việt), v.v…tất cả các tên đều gắn liền với chữ 越, gọi là “chữ Việt bộ Tẩu”. “Tẩu” có nghĩa là “chạy” nhưng không hiểu vì sao sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần khi biên soạn quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) năm 1272 và sử gia Ngô Sĩ Liên, triều vua Lê Thánh Tông, khi viết quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (大越史記全) năm 1479, vẫn sử dụng chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán.

Bài viết này gồm 2 phần. Phần chính giới thiệu chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ đồng thời chứng minh “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán là một bản dịch sai của chữ “Việt” đó. Phần còn lại, phần phụ, trình bày một cái nhìn, một cảm nhận cá nhân về chữ “Việt” của một vị vua sống trong thế kỷ thứ 5 TCN.

CHỮ “VIỆT” CỦA BÁCH VIỆT

Tại sao chủng tộc Bách Việt lại tự nhận diện qua một cái tên không phản ảnh một chút sắc thái nào của mình? Nguyên do nào khiến tên của một chủng tộc từng làm chủ một lãnh thổ rộng lớn lại mang ý nghĩa bi quan như thế?

Ngày nay, khi tìm hiểu ý nghĩa chữ “Việt” giới nghiên cứu không tránh khỏi ngạc nhiên và băn khoăn bởi những câu hỏi tương tự trên đây. Mặc dù có những nỗ lực bỏ ra nhằm khám phá những bí ẩn đàng sau chữ “Việt bộ Tẩu”, nhưng đến nay tuyệt nhiên vẫn chưa có một giải thích thuyết phục nào được công nhận một cách rộng rãi. Sỡ dĩ có sự bế tắc đó là vì họ đã nghiên cứu một cái tên sai. Quả vậy, chữ 越 hay “Việt bộ tẩu” không phải là do người Việt cổ đặt ra, nó chỉ là một phiên bản được các sử gia và học giả của triều đình Tây Hán dùng Hán ngữ dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đã xuất hiện trước đó ít nhất là 300 năm.

Từ văn tự cổ đến trống đồng và những cổ vật khai quật được đặc biệt là thanh gươm của vua Câu Tiễn, chúng ta sẽ tìm câu trả lời chính xác cho câu hỏi Việt là gì, nó sẽ giải tỏa nghi vấn kéo dài suốt hơn 2000 năm kể từ khi Tư Mã Thiên dùng Hán ngữ đặt bút viết chữ ” Việt bộ Tẩu” (越) trong bộ Sử Ký của ông đến nay. Trong phần này các chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng sẽ được trình bày và phân tích. Kế đó, thành phần cấu tạo của chúng sẽ được so sánh với thành phần cấu tạo của chữ “Việt bộ Tẩu” và chữ “Việt bộ Kim”.

1. Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ trong thời đại đồ đồng

Giáp Cốt văn là loại văn tự khắc chạm trên mai rùa hay xương động vật. Chữ trên mai rùa gọi là Giáp văn còn chữ trên xương những động vật khác gọi là Cốt văn. Chữ viết khắc chạm trên đồng và kim loại gọi là văn tự thời đồ đồng. Cả hai loại văn tự đều có từ đời nhà Thương và Giáp Cốt văn là loại văn tự cổ xưa nhất. Triều đại nhà Thương xuất hiện trong khoảng từ năm 1600 đến 1046 TCN, kinh đô đóng tại đất Ân thuộc tỉnh Hà Nam, Trung quốc ngày nay. Giặc Ân trong huyền sử Phù Đổng Thiên Vương của người Việt chính là nhà Thương này. Hiện nay có hơn 4.000 văn tự thời đồ đồng được khai quật và trong đó một số chữ “Việt” được ghi nhận. Xin lưu ý là các văn tự đồ đồng và Giáp Cốt văn dùng trong tài liệu này đều được cung cấp từ chineseetomology.org, một website về cổ ngữ rất phong phú và hữu ích của ông Richard Sears.

Sau đây là 5 chữ “Việt” viết bằng loại “chữ chim”, có nơi gọi là “chữ sâu bọ và chim”, một loại cổ ngữ rất phổ biến và thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

a) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01747


Hình 2: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01747:

- Người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng. Từ đây về sau sẽ gọi là “Người Chim”.

- Người Chim đứng với hai chân dang rộng, tay cầm một cây gậy dựng
đứng trên mặt đất và trên thân gậy có 2 cái móc nhỏ.

- Chữ này chỉ có một thành phần là chính nó.

- Niên đại: không rõ.

b) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01748


Hình 3: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01748:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay Người Chim cầm một vật giống như cái qua (mác).

- Người Chim trong tư thế của một vũ điệu.

- Thành phần bên trái là ký tự gồm một hình tròn nằm trên chữ mang hình tượng có đầu tròn to với một cái đuôi.

- Niên đại: không rõ.

c) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01750


Hình 4: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01750:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn nằm trên ký tự có hình tượng giống thân rắn với 2 sừng.

- Niên đại: không rõ.

d) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01751


Hình 5: Một chữ “Việt” trong thời đại đồ đồng

Nhận xét chữ mang ký hiệu B01751:

- Thành phần bên phải là Người Chim trong tư thế nhảy múa.

- Người Chim không cầm qua hoặc binh khí.

- Thành phần bên trái là một hình tròn nằm trên một cái đầu có đuôi cong.

- Niên đại: không rõ.

e) Chữ “Việt” mang ký hiệu B01749



Nhận xét chữ mang ký hiệu B01749:

- Thành phần bên phải là Người Chim.

- Tay phải của của Người Chim cầm một vật có hình dạng của một cái qua.

- Thành phần bên trái gồm một hình tròn có chấm bên trong và nằm ngay trên ký tự có hình tượng uốn lượn như thân rắn với một cái đầu to, miệng (hoặc 2 sừng) và mắt.

- Niên đại: 496 – 465 TCN. Đây là chữ “Việt” được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn nước Việt (khác với Việt Nam).

Kết luận: Khảo sát các chữ “Việt” trên đây chúng ta rút ra được 2 điểm quan trọng,

- Thứ nhất, chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại trong khoảng từ 496 đến 465 TCN, nghĩa là chúng xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tiền Hán ít nhất 3 thế kỷ.

- Thứ hai, yếu tố chủ đạo của các chữ “Việt” là “Người Chim”. “Qua” hay binh khí là yếu tố phụ.

2. Chữ “Nước” (Quốc gia) trong thời đại đồ đồng

Theo định nghĩa của chữ 邑 (ấp), một trong các ý nghĩa của nó là “nước” hay “quốc gia”. Ví dụ như “nước Chu” (邾: Chu quốc) hay “nước Hàn” (邗: Hàn quốc) thời Xuân Thu và Chiến Quốc.


Hình 7: Chữ “ấp” trong thời đại đồ đồng. Chữ này có nghĩa là “nước”, “quốc gia”, “kinh đô, “thành thị” hoặc là vùng đất được vua ban cho.


Hình 8: “Chu quốc” nghĩa là “nước Chu” theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và thời chữ Triện (phải).

Trong chữ “Chu quốc” nghĩa là “nước Chu” (hình 8), chữ “nước” được đặt sau chữ “Chu”, khác với cách viết của người Việt là chữ “nước” được đặt trước như trong các chữ “Việt” của thời kỳ đồ đồng và cách viết hiện nay của người Việt Nam. Tương tự, chữ “nước” được dùng trong chữ “Hàn quốc” (nước Hàn) trong hình 9.


Hình 9: “Hàn quốc” nghĩa là “nước Hàn” theo cách viết trong thời đại đồ đồng (trái) và theo lối chữ Triện (phải).

Hiện nay có tất cả 31 chữ “邑” (ấp) thuộc thời kỳ đồ đồng (hình 7) được ghi nhận.

3. Chữ “Tẩu” trong thời đại đồ đồng

Chữ 走 (Tẩu) là thành phần bên trái của chữ 越, chữ “Việt bộ Tẩu”, viết theo Hán ngữ hiện đại.


Hình 10: Chữ “Tẩu” (Hán ngữ: 走) trong thời kỳ đồ đồng.

So sánh chữ “nước” (hình 7) với chữ “tẩu” của thời kỳ đồ đồng (hình 9) thì hai chữ này hoàn toàn khác nhau từ hình thức đến nội dung. Hơn nữa “nước” là một danh từ còn “tẩu” là một động từ. Hiện có 17 chữ “Tẩu” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận (hình 9).

4. Chữ “Kim” thời đại đồ đồng

Trong hình 11 và phía trên là một số cách viết chữ chữ “Kim” trong thời đại đồ đồng. Ở dưới và bên trái là chữ “Gươm”, chữ cuối trong 8 chữ được khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Thành phần bên trái của chữ “Gươm” chính là chữ “Kim”.


Hình 11: Các cách viết chữ “Kim” trong thời đại đồ đồng (trên). Chữ “Kim” là phần trái của chữ “Gươm” (hình dưới, bên phải) và chữ “Nước” là phần trái của chữ “Việt” (hình dưới, bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn.

Cũng trong hình 11, ở dưới và bên trái, chữ “Việt” là chữ đầu tiên trong 8 chữ cổ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Phần bên trái của chữ “Việt” không thể là chữ “Kim” vì không bao giờ có 2 chữ “Kim” khác nhau được khắc trên cùng một thanh gươm, nhất là thanh gươm của một ông vua. Hơn nữa về hình thức thì 2 chữ 邑 (Ấp, hinh 7) và 金 (Kim, hình 11) hoàn toàn khác nhau. Hiện nay có tất cả 82 chữ “Kim” thuộc thời đại đồ đồng được ghi nhận.

Kết luận: Thành phần bên trái của chữ “Việt” nguyên thủy chính là chữ “邑” (ấp) và được viết bằng “văn tự chim”, một loại chữ cổ có trước Hán ngữ và rất thông dụng ở các nước Sở, Việt, và Chu.

5. Chữ “Người Chim” trong chữ “Việt” nguyên thủy và chữ “người cầm qua” (戉) trong “chữ Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán

“Chữ Việt bộ Tẩu” của triều đình nhà Tây Hán viết theo Hán ngữ hiện đại gồm 2 thành phần. Phần bên trái là chữ “Tẩu” dùng để xác định ý nghĩa của toàn chữ và phần bên phải là chữ “Việt” dùng để phát âm (hinh 12).


Hình 12: “Việt bộ tẩu” viết theo Hán ngữ hiện đại.

Chữ bên phải của chữ “Việt bộ Tẩu” mang hình tượng một người cầm qua, chữ này có gốc từ chữ 戈 của Hán ngữ và có nghĩa là “Qua”, ‘Mác” hay “Chiến tranh”. Chữ 戉 (người cầm qua) trong chữ “Việt bộ Tẩu” không phải là thành phần cấu tạo của chữ “Việt” nguyên thủy.


Hình 13: Một cách dịch chữ “Người Chim” của người Việt cổ sang Hán ngữ hiện đại. Lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.

Thật vậy, từ chữ “Việt” trong thời kỳ đồ đồng đến hàng trăm trống đồng được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam, tất cả đều thể hiện một quan niệm đồng nhất của người Việt cổ khi dùng các yếu tố chủ đạo để tự nhận diện và yếu tố đó chính là “Người Chim” tay cầm qua hay binh khí (hình 13).


Hình 14: “Người Chim” trên trống đồng Ngọc Lũ. Nguồn: Wikipedia.

Cho đến nay số lượng chữ “Việt” thuộc thời đại đồ đồng khai quật được tuy không nhiều nhưng quan trọng là tất cả đều thể hiện tính nhất quán cả về nội dung lẫn hinh thức. Vì vậy, có thể tiên đoán rằng đối với bất kỳ chữ “Việt” nào có trước thời Tiền Hán và được viết theo “văn tự chim” thì xác xuất để nó mang cùng nội dung và hình thức với 5 chữ “Việt” trình bày trên đây rất cao.


Hình 15: Một ví dụ của chữ “Việt” được dịch sang Hán ngữ hiện đại từ chữ “Việt” nguyên thủy. Bên trái là chữ ấp (邑: nước), bên phải là chữ “Người Chim” tay cầm qua và phát âm là “Việt”. Toàn chữ viết và đọc là “nước Việt”. Trong Hán tự không có chữ này. Hán ngữ hiện đại dùng chữ 國 (quốc, nước, quốc gia) thay thế cho chữ 邑 (ấp, nước, quốc gia).

Kết luận:

Chữ “Việt” nguyên thủy của người Việt cổ có niên đại từ 496 – 465 TCN, xuất hiện trước chữ “Việt bộ Tẩu” của nhà Tây Hán ít nhất 300 năm và được cấu tạo bởi hai thành phần duy nhất là chữ “Nước” (邑) ở bên trái và chữ “Người Chim” tay cầm qua ở bên phải . “Người Chim” được phát âm là “Việt” và là yếu tố chủ đạo, còn “qua” hay binh khí là yếu tố phụ (hình 15).

oOo

Từ các chứng cớ lịch sử vững chắc đã được công bố bao gồm văn tự của thời đại đồ đồng, hoa văn trên trống đồng, và cổ ngữ trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, những phân tích trên đây chứng minh rằng dù được viết bằng Hán ngữ thời Tây Hán hoặc hiện đại thì nội dung và hinh thức của chữ 越, chữ Việt bộ tẩu và 2 thành phần của nó 走 và 戉, hoàn toàn không phải là chữ “Việt” của Bách Việt, nó chỉ là một phiên bản được dịch từ chữ “Việt” nguyên thủy vốn đã có trước khi nhà Tây Hán thành lập 3 thế kỷ. Hán sử không trung thực khi ghi chép về Việt tộc, đó là sự thật, và điều đáng tiếc là Tư Mã Thiên, dù với bất kỳ lý do nào, đã xem nhẹ kiến thức và uy tín của tác giả bộ Sử Ký nổi tiếng khi dịch sai tên một chủng tộc. Ông đã bị chính trị ảnh hưởng, hay nói một cách chính xác hơn, đó là một nhầm lẫn được suy tính chu đáo của triều đình nhà Tây Hán trong chính sách tiêu diệt và đồng hóa các thị tộc Bách Việt.

PHỤ LỤC: MỘT CÁCH DỊCH CHỮ “VIỆT” SANG HÁN NGỮ

Chúng ta bắt đầu phần này bằng một câu chuyện về nước Oa (Wa), một quốc gia nằm trong vùng biển phía đông của Hoa lục. ” Oa” viết theo Hán ngữ là 倭, là tên do người Hán đặt cho dân tộc này và được họ dùng trong nhiều thế kỷ để tự nhận diện và khi giao tiếp với các triều đình Trung Hoa.

Mãi đến thế kỷ thứ 8, sau khi khám phá ra thâm ý phía sau tên Oa, học giả và trí thức người Oa lập tức dùng một tên khác để thay thế. Chữ Oa (倭) mang ý nghĩa châm biếm và xúc phạm như “phục tùng” hay “thằng lùn”, còn tên mới 和 có nghĩa là “hài hòa, hòa bình, và quân bình. “Đại Hòa” (大 和) từng là tên của nước Oa sau thế kỷ thứ 8. Ngày nay người Oa dùng một tên khác mà người Việt thường ưu ái gọi họ là “con cháu Thái Dương Thần Nữ”. Đó là đất nước và dân tộc Nhật Bản (日本).

Trong phần chính chữ “Việt” được phân tích theo phương pháp khoa học và căn cứ trên những chứng cớ cụ thể đã được công nhận. Trong phần này ý nghĩa của chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn được suy diễn đơn thuần dựa theo phong tục tập quán của người Việt và vì vậy cách dịch chữ “Việt” ở đây sẽ không hoàn toàn khách quan.

1. Chính sử: Thanh gươm của vua Câu Tiễn

Câu Tiễn là một người Việt cổ, làm vua nước Việt từ năm 496 đến 465 TCN. Vương quốc của ông lúc bấy giờ bao gồm Thượng Hải, Chiết Giang và Giang Tô ngày nay và kinh đô đặt tại Hội Kế (Cối Kê) trong tỉnh Chiết Giang. Tỉnh Chiết Giang là nơi có con sông Tiền Đường, giòng sông nơi Thúy Kiều gieo mình tự vẫn nhưng được sư Giác Duyên cứu sống trong tác phẩm Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Khoảng năm 333 TCN, dưới thời của vua Vô Cương là cháu đời thứ 6 của vua Câu Tiễn, nước Việt bị nước Sở thôn tính và thị tộc U Việt mất nước từ đây.

Tuy vậy, câu chuyện của vị vua người Việt cổ chưa chấm dứt ở đó. Vào năm 1965 người ta khai quật được thanh gươm của ông ở tỉnh Hồ Bắc, Trung quốc và hiện được trưng bày tại viện bảo tàng của tỉnh này (hình 16).


Hình 16: Thanh gươm của vua Câu Tiễn được khai quật năm 1965 hiện được trưng bày tại viện bảo tàng Hồ Bắc, Trung quốc. Nguồn: uncleicko.

2. Chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn: một cái nhìn khác

Cảm nhận đầu tiên là sự khác thường của chữ “nước” ( 邑) trong chữ Việt trên thanh gươm so với chữ “nước” (邑) của các chữ “Việt” khác trong thời đại đồ đồng. Chính sự khác thường đó là nguồn cảm hứng cho phần này, ngoài “Người Chim”, trong chữ “Việt” còn có thêm 2 yếu tố khác.


Hình 17: Tám chữ cổ khắc trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Tám chữ này được viết theo lối điểu ngữ (còn gọi là trùng ngữ). Theo thứ tự chúng được dịch là “Việt Vương Câu Tiễn Tự Tác Dụng Gươm” có nghĩa là “Thanh gươm của Vua Câu Tiễn nước Việt tự làm để dùng”. Hán tự không có chữ “Gươm”. Nhà nghiên cứu Đỗ Thành có phân tích về chữ “Gươm” và “Kiếm” trong bài “Chữ Kiếm trong thanh Gươm của Việt Vương Câu Tiễn”. Nguồn: Wikipedia.Trong hình 18, theo nhận xét thiên về mặt phong tục tập quán và huyền sử hơn là phương diện khoa học và ngữ văn thì chữ “Việt” trên thanh gươm gồm 3 thành phần thay vì 2 như đã trình bày. Ba thành phần đó là các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Người Chim”.


Hình 18: Chữ “Việt” (bên trái) trên thanh gươm của vua Câu Tiễn và 3 thành phần cấu tạo của nó.

Trong các phần kế tiếp, các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn sẽ được so sánh với cách viết các chữ “Mặt Trời” và “Rồng” trong thời kỳ Giáp Cốt Văn và thời đại đồ đồng. Kế tiếp, hoa văn khắc trên trống đồng sẽ được dùng để thiết lập mối tương quan với các chữ “Mặt Trời”, “Rồng”, và “Nguời Chim” trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn. Cuối cùng, huyền sử “Rồng Tiên” phát xuất từ đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ được dùng để góp phần nêu lên sắc thái chung mà người Việt cổ dùng để tự nhận diện và phân biệt họ với các chủng tộc khác.

3. Chữ “Mặt Trời” trong Giáp Cốt Văn và trong chừ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Theo Giáp Cốt Văn (hình 19) và cổ ngữ trong thời đại đồ đồng (hình 20), chữ “Mặt Trời” được viết như là một hình tròn hoặc là một hình có 4 cạnh với một cái chấm hay một gạch ngang nằm bên trong. Hình thức hay cách viết của chữ “Mặt Trời” trong các thời kỳ đó thì duy nhất, nghĩa là:

a. Không có bất kỳ chữ nào mang ý nghĩa khác được viết với hình thức đó.

b. Bất kỳ chữ nào được viết với hình thức như vậy đều có nghĩa là “Mặt Trời”.

Vì vậy, một thành phần của chữ “Việt”, chữ thứ hai tính từ trái sang phải trong hình 18, được xem là chữ “Mặt Trời”.


Hình 19: Chữ “Mặt Trời” trong thời đại Giáp Cốt Văn.


Hình 20: Chữ “Mặt Trời” trong thời đại đồ đồng.

4. Chữ “Rồng” trong Giáp Cốt Văn và trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Trong Giáp Cốt Văn (hình 21), chữ “Rồng” là một hình thù cong như thân rắn với một cái đầu to có 2 sừng và đôi khi trên đầu đội vương miện.


Hình 21: Bên phải là một số cách viết chữ “Rồng” trong thời kỳ Giáp Cốt văn. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ “Rồng” của Giáp Cốt văn, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.

5. Chữ “Rồng” trong thời đại đồ đồng và trong chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn

Hình 22 trình bày là các chữ “Rồng” trong thời kỳ đồ đồng. Trong giai đoạn này chữ “rồng” được viết sắc sảo hơn với đầu to, miệng và răng, có hai sừng và đội vương miện.


Hình 22: Bên phải là các cách viết chữ “Rồng” trong thời đại đồ đồng. Bên trái là một thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, nó giống chữ “Rồng” của thời đại đồ đồng, có thân uốn lượn như mình rắn với một cái đầu to có mắt và 2 sừng.

So với chữ “Rồng” của các thời kỳ Giáp Cốt văn và đồ đồng thì một trong các thành phần cấu tạo nên chữ “Việt” trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, chữ thứ 3 tính từ trái sang phải trong hình 18 được cho là chữ “Rồng”.

6. Trống đồng: Chính sử của Bách Việt

Khi toàn bộ Bách Việt ở vùng Hoa Nam bị tiêu diệt và đồng hóa, sử sách của họ cũng cùng chung số phận. Tuy Lạc Việt (Việt Nam) tránh được nạn diệt vong và mất nước nhưng sử sách cũng bị Hán tộc thiêu hủy. Quyển quốc sử cổ xưa nhất của Lạc Việt còn lưu lại là quyển Đại Việt Sử Ký (大越史記) của sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Trần, quyển này cũng chỉ mới được biên soạn vào năm1272.

May thay, để bổ sung phần nào vào thiếu sót đó là hàng trăm trống đồng cùng những di tích và cổ vật của người Việt cổ được khai quật ở Việt Nam và vùng Hoa Nam trong các thế kỷ qua. Sau đây là sự thật đã được xác lập:

- Hán tộc không có trống đồng.

- Trống đồng do chính người Việt cổ thiết kế và chế tạo.

- Minh văn trên trống đồng phản ảnh sắc thái chủ đạo trong đời sống thực tế của người Việt cổ.

Vì vậy trống đồng là một quyển chính sử của chủng tộc Bách Việt.

7. “Mặt Trời” trong chính sử trống đồng

Về yếu tố “Mặt Trời” thì hiển nhiên không cần lời giải thích dài dòng vì tất cả những trống đồng khai quật được đều có chạm trổ mặt trời ở chính giữa tang trống. Do đó “Mặt Trời” đương nhiên là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của người Việt cổ.


Hình 23: Một ví dụ của chữ “Việt” nguyên thủy được dịch ra Hán ngữ hiện đại. Nó gồm chữ “Nhật” (Hán ngữ: 日 nghĩa là mặt trời – phần bên trái và nằm ở trên), chữ “Long” (Hán ngữ: 龍 nghĩa là “rồng” – phần bên trái, ở dưới), và bên phải là chữ “người đeo lông chim trên đầu và thắt lưng, tay cầm cái qua” , lưu ý là Hán ngữ không có chữ này.

8. “Rồng” từ đời sống thực tế đến huyền sử

Huyền sử “Con rồng cháu tiên” là câu chuyện thần thoại không có thật nhưng nó phát xuất từ sự việc có thật trong đời sống hằng ngày của người Việt cổ. Chính sử Việt và Trung Hoa ghi nhận rằng dân Bách Việt có tục xâm mình, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép như sau:

Vua nói: “Người man ở núi khác với các loài thủy tộc; các thủy tộc ấy ưa cùng loài mà ghét khác loài, cho nên mới bị chúng làm hại. Rồi vua bảo mọi người lấy mực vẽ hình thủy quái ở mình. Từ đấy thuồng luồng trông thấy không cắn hại nữa.

Từ nhận định trên người Việt cổ đã nghĩ ra phương pháp xâm mình để tự bảo vệ khi di chuyển và mưu sinh trên sông hồ. Xâm mình là để thuồng luồng hay giao long “tưởng” họ cùng đồng loại nên sẽ không bị chúng gia hại.

Thoạt tiên mục đích xâm mình đơn thuần chỉ là một biện pháp tự vệ đơn giản, nhưng dần dà, khái niệm tự nhận mình cùng đồng loại hay cho mình là con cháu của rồng được hình thành một cách tự nhiên trong tâm thức của những thế hệ sau. Đồng loại với rồng không phải là câu chuyện thần thoại dựa trên một việc hoang đường, trái lại nó bắt nguồn từ ngay trong đời sống thực tế hằng ngày của người Việt cổ nên “Rồng” được xem là một yếu tố chủ đạo trong đời sống của dân Bách Việt.

9. “Người Chim” trong chính sử trống đồng

Tùy theo niên đại và thị tộc khác nhau, các trống đồng được khai quật có kích thước, phẩm chất và những minh văn khác nhau, nhưng đặc biệt hầu hết các trống đồng đều có chạm trổ những Người Chim, tay cầm qua hay binh khí và ở trong tư thế nhảy múa. Tương tự như sự hình thành khái niệm “con Rồng”, khái niệm “cháu Tiên” được bắt nguồn từ phong tục hóa trang thành Người Chim, một trong những tập quán nổi bật nhất của của người Việt cổ.

oOo

Tóm lại nếu có ai hỏi Việt là gì thì câu trả lời nên là: Việt là “Mặt Trời”, là “Rồng”, là “Người Chim” (Tiên). Đó là 3 yếu tố chủ đạo để nhận diện chủng tộc Bách Việt. Khái niệm Rồng của Bách Việt phát xuất từ đời sống thực tế qua phong tục xâm mình còn khái niệm Rồng của Hán tộc thì bắt nguồn từ đâu? Thắc mắc này được dùng để kết thúc phần phụ lục.

KẾT LUẬN

Tại sao nhà Tiền Hán không sửa đổi tên các nước Chu, Tề, Hàn, Triệu, v.v… mà họ lại đặc biệt làm điều này đối với Bách Việt? Chắc chắn sẽ có nhiều câu trả lời và chúng có thể không giống nhau. “Việt” là tên gọi chung của các chủ nhân vùng đất phía nam Trường Giang, dùng “Việt” thì có khả năng hiệu triệu và thống nhất toàn thể Việt tộc, tạo nên một sức mạnh có khả năng đối đầu và thách thức quyền lực của Hán triều trên toàn vùng Lĩnh Nam và Giao Chỉ. Chẳng hạn như sự trỗi dậy và hùng cường của các vương quốc Việt tộc như Sở, Ngô, và Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc, hoặc chính nhờ sự hậu thuẫn của Bách Việt nên Triệu Đà mới dám xưng Nam Việt Vũ Đế tạo được thanh thế ngang ngửa với nhà Tây Hán, hay sự đồng loạt hưởng ứng của các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đối với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 40, v.v… Nói chung nếu không tiêu diệt và đồng hóa được Bách Việt thì Hán tộc sẽ không bao giờ chiếm và bình định được vùng đất phía nam dãy núi Ngũ Lĩnh. Bắt đầu chính sách ấy với việc cấm dùng chữ “Việt” nguyên thủy và thay bằng một tên khác, chữ “Việt bộ Tẩu”, người Hán đã thành công lấy được toàn cõi Hoa Nam; nhưng chưa dừng lại ở đó, họ vẫn đang tiếp tục tràn xuống và mục tiêu lần này là Biển Đông Nam Á và căn cứ cuối cùng của Việt tộc.

Lịch sử Bách Việt chứng tỏ không kém phần phong phú khi được hé lộ qua kỹ thuật đúc gươm, trống đồng, cùng những di tích và cổ vật khác được khai quật trong vài thế kỷ qua, đáng tiếc là nền văn minh và văn hóa ấy đã liên tục bị tiêu diệt trong suốt hơn 1000 năm, lãnh thổ thì mất cả chỉ còn lại một dải nhỏ hẹp. Bị gián đoạn hơn 10 thế kỷ khiến sử Việt thiếu hẳn phần đầu, có chăng thì cũng mù mờ, đầy bí ẩn; phần sau của lịch sử cũng chỉ mới bắt đầu khi người anh hùng xứ Đường Lâm, Tiền Ngô Vương Ngô Quyền, thành công bảo vệ thành trì cuối cùng của Bách Việt bằng một trận đánh đẫm máu trên sông Bạch Đằng năm 938.

Từ kỷ nguyên Internet đọc lại chính sử trên văn tự cổ, trên thanh gươm của vua Câu Tiễn, trên trống đồng, và đời sống thực tế của người Việt cổ, hậu duệ của họ không những có trách nhiệm viết đúng lại tên Bách Việt để phản ảnh sự nhất quán của cổ nhân về tên chủng tộc, mà còn có bổn phận đào xới và minh bạch hóa lịch sử của chủng tộc vốn là chủ nhân của một lãnh thổ rộng lớn và trù phú. Vì vậy, viết lại tên Bách Việt là khởi đầu cho công cuộc làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử bị gián đoạn, đồng thời cũng là lời mở đầu cho một quyển sử mới với hy vọng trong đó có chép cuộc hành trình về lại vùng Lĩnh Nam của hậu duệ người Việt cổ.

Thung lũng Hoa vàng
Nguyễn Đại Việt
Mồng Một Tết Nhâm Thìn tức ngày 23 tháng 1 năm 2012


*Tác giả Nguyễn Đại Việt là tiến sĩ trong ngành điện toán, chuyên nghiên cứu và phát triển Integrated Circuits và Microprocessor cho kỹ nghệ Semiconductor. Ông là thành viên trong Ban nghiên cứu Á Châu của Nguyễn Thái Học Foundation.


<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2012 02:27:18 bởi Phù Vân >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 02.02.2012 02:20:34
0
TRƯỚC HIỂM HỌA MẤT NƯỚC MỘT LẦN NỮA 


GS. Phạm Cao Dương



嶺南摭怪列傳 – Lĩnh Nam chích quái liệt truyện, bản chép tay lưu trữ tại Thư viện QGVN

Trong Khởi Hành số 90, tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu”, tôi đã viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc. Trong số những vị này, có người là độc giả thuần túy, có người là sinh viên cũ của tôi và cũng có người là học giả có uy tín và rất khả kính. Bác Sĩ Trần Văn Tích là một trong các học giả uy tín và rất khả kính này. Trần Bác Sĩ đã bỏ công viết hẳn một bài đăng với nhan đề “Chuyện Người Tàu Lấy Sách Của Ta” trên Khởi Hành số 92, tháng 6 năm 2004 sau đó và gián tiếp đặt câu hỏi với tôi. Vốn ngưỡng mộ Bác Sĩ từ lâu nhờ đọc các công trình khảo cứu của ông, đồng thời lại có dịp gặp ông dù chỉ thoáng qua khi ông tới thăm Quận Cam và Viện Việt học sau đó nên tôi thấy cần phải viết bài này để được làm quen với ông, đồng thời giải đáp đôi chút những thắc mắc của các độc giả mà tôi đã nhận được. Gốc gác của bài viết này là như vậy. Nhưng năm 2004 khác với năm 2012. Năm 2004 hiểm họa xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2011 và bây giờ là năm 2012. Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết thêm nhiều nữa.

Phải nói là chuyện tôi viết bài đăng trên Khởi Hành số 90 kể trên cũng là do tôi đọc Khởi Hành số 89 y hệt Bác Sĩ Trần Văn Tích viết bài đăng trên Khởi Hành số 92 vì ông đọc Khởi Hành số 90. Có điều sự thắc mắc của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu là có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang của xứ sở và của dân tộc mình. Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục của tôi cũng là của chung của cả dân tộc tôi, dù cho là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiên cứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam. Có lẽ tôi không theo kịp Trần Quân ở điểm này. Có điều những gì tôi viết ra chỉ là một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương thời do chính người Đại Việt viết, trong đó có học thuật, tư tưởng, phong tục, tập quán, sử ký, địa lý và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca…, những gì có thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt. Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách do các cụ viết.[1] Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình. Tôi cũng dám tin như vậy vì trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời. Những sụ hiểu biết của các ông còn rất nóng. Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ nên những gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thu sách của người Việt của Nhà Minh là như thế nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau:

“… Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đdều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời. Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.”[2]

Điều cần phải để ý là đây mới chỉ là thơ mà thôi.


Đại Minh Thái Tổ Hoàng đế Chu Nguyên Chương (1368 – 1398)

Sự thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368[3] và Trần Nguyên Đán (1325 – 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị)[4]. Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến? cái gì đã làm cho trăm họ Đại Việt âu ca lạc thịnh thì? Cái gì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay[5] thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ, điều thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả hiện tại, tôi muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được? Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiên cứu về thời này phải tìm hiểu để trả lời. Những sách vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn là những nguồn hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn đọc và lưu giữ. Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được. Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có.

Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không tưởng vì nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 – 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này.

Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí,” Lê Quý Đôn có viết:

”Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.”[6] Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghỉa sang nước ta ban phát cho những người Nho học có chép thêm“”Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.”[7]”

Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết ”Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý – Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418 ), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!”[8]”

Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng vẫn có thể nói rằng những ghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì ta không biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộ KĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên. Có thể các vị này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước ông. Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông đã đọc rất nhiều và rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dù sao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.

Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần,công trình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ trước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị hoàng đế này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ…thì khi “đài tải” sẽ bị mất mát nhiều[9].

Tại sao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều?

Đến sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước: “Nay An-nam đã bình định xong [...] trừ các loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện.”[10] thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết. Một số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều. Ngoài ra, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện mật khác hoặc đã được niêm phong gửi lại triều đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được. Do đó nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá vội vã. Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có thể viện dẫn được. Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học, ở đây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly[11] và của Chu Văn An[12], chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa nhà. Thứ hai là các nhu cầu quân sự, hành chánh và bình định. Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn triều đình nhà Minh thì ở xa, làm sao có thể theo dõi chặt chẽ được.

Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dưới hình thức này hay hình thức khác chưa? Câu trả lời là có. Đó là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sách này xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại. Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 – 1795) mới được đem in, nói là theo bản của tuần phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ Sơn Các Tùng Thư. Việt Sử Lược được lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã phiên dịch sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải.[13] Trong bản dịch này Trần Quốc Vượng có nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật giáo uyên thâm này đã khẳng định là: “Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên.”[14]

Đại Việt sử lược
大越史略



Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiển họa mất nước của dân tộc ta trước những mưu toan vừa công khai vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với đất đai cũng như đối với con nguời. Tất cả đã trở thành một một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước.

Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá trị văn chương của thi phú của ta thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ. Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới lịch sử. Tuy nhiên nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại hay viết lại sách hay đạo văn của ta khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV thì họ chỉ nhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tin tưởng và hãnh diện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng tữ ngữ chung của nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta. Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi. Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, nằm ngoài rìa của Hoa Hạ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại…

Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không chấp nhận được. Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, vô tình ông đã khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc. Điều này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho Trương Phụ và các tướng tá của ông này “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, dều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu huyện”.[15] Lệnh này phải được hiểu là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thác mới là chính.

Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quý Ly. Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần, trái lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng và sau này tế như là thánh tổ của họ. Nói cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ ở chung quanh về làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú… Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng ở không thời nào, không người nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt. Hậu quả là từ sau thời Minh thuộc, người Việt không bao giờ có được những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, đáng hãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa.

Phạm Cao Dương

Kỷ Niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa năm Nhâm Thìn, 2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.02.2012 02:25:27 bởi Phù Vân >

Phù vân
  • Số bài : 360
  • Điểm: 6
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 08.01.2011
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 02.02.2012 02:59:13
0
CHUYỆN VU VƠ VỚ VẨN
 


Chuyện phiếm

Em Việt Nam là một cô gái xinh đẹp nên khối anh muốn chim. Những anh giàu có, nhà mặt đại dương, làm to (ở Liên hợp quốc) như Trung Quốc, Nga, Pháp, Mỹ đều thích em cả.

Em như thế sao lai không thích cơ chứ. Này nhé: gương mặt em rực rỡ như bông hoa buổi sớm. Các anh đi trên máy bay nhìn xuống em có cảm giác như đi trên một rừng hoa. Dáng em lại tuyệt vời, lộ rõ đường cong mềm mại hình chữ S trông thật gợi tình. Em nằm xõa tóc, tênh hênh bên bờ Biển Đông thơ mộng, hai núm bồng đảo Lưỡng Sa (Hoàng Sa, Trường Sa) ưỡn ra Thái Bình Dương, anh nào đi qua trông thấy chẳng nao lòng mà nhớ đến mấy câu thơ của Hồ Xuân Hương:

Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm

Nhà em VN ở giữa cái chợ phồn thịnh và sôi động nhất địa cầu. Nếu lấy chính điện nhà em (Hà Nội) làm tâm, quay một vòng tròn thì sẽ bao gọn cả xóm Đông Nam Á. Cha mẹ em lại để cho em bao nhiêu của hồi môn nên em có của ăn của để. Vàng cha mẹ em giấu ở Quảng Nam, than ở Quảng Ninh, sắt ở Thái Nguyên, thiếc ở Quì Hợp, boxit ở Tây Nguyên … Lúa gạo thì nhiều vô kể từ hai thửa ruộng to nhất là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Em ăn không hết, mang ra chợ bán bốn năm triệu tấn một năm. Riêng dầu mỏ cha mẹ em chôn ngoài khơi Vũng Tàu và còn cẩn thận giấu ở chỗ ít ai để ý là vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa (nói ít ai để ý là hồi trước cơ). Thiên hạ còn xì xào rằng nhà em làm đúng trên rốn dầu của quả đất. Nếu hút hết dầu trong ao nhà em thì dầu của các anh Trung Đông, Nam Dương … tự nhiên lại dồn đến, làm cho mấy anh Ô-pếc đứng nhìn, tức mà ứ làm gì được. Nghĩa là các túi dầu dưới ao nhà em là túi dầu Thạch Sanh.

Tuy vậy, em không thích sống xa hoa, chỉ cần mo cơm quả cà là xong bữa, có thể khai phá con đường đi lên thiên đường chủ nghĩa cộng sản được rồi. Cái chính em cần là cái tình, một tình yêu đích thực không vụ lợi.

Xinh đẹp, hiền thục và có nhiều lợi thế khác nên việc em VN bị những thằng đàn ông tìm cách chiếm hữu cũng là lẽ đương nhiên. Hồng nhan thường là trắc trở về đường tình duyên. Cái đận 1954, sau khi đi hội nghị Giơ-ne-vơ về, em VN bị hai anh mê liền một lúc. Anh TQ cậy gần nhà, chỉ cách nhau cái giậu mồng tơi nên nhanh tay yêu được phần trên, tha hồ hôn hít xoa bóp. Anh Mỹ thì ở xa, đến chậm hơn nên yêu phần dưới. Nhưng ai cũng bảo anh Mỹ yêu phần dưới là vớ bở, là thực dụng, chứ phần trên thì ăn thua gì. He he. Ấy là chưa kể phần dưới em còn hòn ngọc Viễn Đông (Sài Gòn) nữa.

Anh TQ dèm pha rằng thằng Mỹ tuy giàu và đẹp trai (thế mới gọi là Mỹ) làm ra vẻ hào phóng nhưng thực dụng, không hào hoa lãng mạn, thiếu chung thủy. Của nả nhà nó toàn do bóc lột giá trị thặng dư từ mồ hôi nước mắt của công nhân mà có. Phải như ở phe ta thì nó đã bị tịch thu hết tài sản, đem bắn từ lâu rồi. Nó lại là thằng đa tình, thấy cô gái nào cũng sán đến tán tỉnh. Nhà nào có con cái bị chèn ép, đối xử bất công nó cũng tìm cách nhúng mũi vào bênh vực hộ nên người ta mới gọi nó là sen đầm quốc tế.

Còn anh Mỹ thì bảo thằng TQ nghèo, nghe thằng Nga suỵt chó vào bụi rậm, đi quàng đi xiên, lấy nó rồi khổ một đời. Bây giờ có tí của đã khoe nhặng lên mà giàu xổi thì không bền. Ấy là chưa kể đến tính nó hung hăng, cục súc. Nó chuyên dùng sức mạnh để bắt người ta yêu nó. Nó cho rằng tình yêu đẻ ra từ nòng súng, đầu tiên dẫu có bị cưỡng bức nhưng mãi rồi sẽ quen, tình yêu thực sự sẽ dần dần nảy nở.

Nhưng em VN vốn là người có tình nghĩa, thấy anh TQ cho nhiều quá, khi thì bát gạo, lúc thì phong lương khô, đôi khi lại mảnh vải may quần áo trong khi nhà anh cũng chẳng khá giả gì nên sinh ra nể. Mặt khác, tuy hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay là vậy nhưng anh TQ cũng dẻo mỏ ra phết. Anh nóng tính đấm em một quả xong xoa dịu, bảo rằng chuyện vặt ấy mà, bát đĩa còn xô nhau huống chi bồ bịch (mà bồ thì phải bịch chứ nhỉ), hai đứa hãy khép lại quá khứ hướng tới hôn nhân, chớ để tụi đế quốc nó lợi dụng. Em VN ấm ức: “Anh khôn thế, không nhắc lại thì chỉ có lợi cho anh thôi bởi anh ra tay thì anh xấu, chứ em bị ăn hiếp thì xấu chi, kêu ra ai người ta chẳng bênh em”. Nhưng đến khi anh TQ mang 16 chữ vàng với bốn cái tốt ra tán thì em VN lại mê tít. Em vốn bao dung, vị tha mà.

Trong tình trường, người ta có câu: “Nhất cự ly, nhì cường độ” nên em VN sau này ngả hẳn vào vòng tay anh TQ, không cho anh Mỹ yêu phần dưới nữa cũng là dễ hiểu. Nhưng qua thời gian tìm hiểu mấy chục năm (may mà chưa cưới), càng ngày em VN càng thấy anh TQ không thật lòng, có nhiều cái rất đáng khả nghi mà kẻ độc miệng gọi là mưu mô, nham hiểm.

Anh TQ sang giữ nhà hộ em VN nhưng lại tranh thủ nghiên cứu đường đi lối lại để sau này sang ăn trộm. Nhà em hở hang ra cái gì là anh tìm cách chôm hay xâm lấn theo kiểu chó sói gửi chân. Anh sang nhà em đào ngạch khoét núi nói là làm trận địa nhưng thực ra là tìm của nả tổ tiên anh giấu, cho vào ô tô bịt kín chạy thẳng về, em nể không dám kiểm tra. Anh rất hay để ý đến cái giậu mồng tơi, thấy chỗ nào tiện là anh nhổ cọc giậu cắm lùi sang nhà em một tí. Anh mượn vườn nhà em làm lối đi, sau anh cãi đường anh làm nghĩa là đất của anh. Ấy vậy mà cuối cùng cũng được nhiều phết, toàn chỗ trọng yếu cả. Thác Bản Giốc trước khi các cụ nhà em mất, nó nằm hẳn bên này giậu mồng tơi. Hàng ngày em vẫn ra tắm và soi gương xuống suối. Thế mà anh vẫn đòi em chia cho một nửa rồi đòi tắm chung (thẹn chết đi được). Lối đi sang nhà anh, có cái cổng gọi là ái tình quan anh cũng bắt em dịch vào mấy trăm mét.

Nhà em với nhà anh chung một cái ao, góc ao có bến tắm Tục Lãm, trước đây các cụ hai bên đã thống nhất chia rồi, nay anh bắt chia lại sao cho anh được lợi hơn. Anh xoa dịu: chia thế, nhưng cá bên anh sang bên em, em cứ việc bắt. Nói thế thì ai chả nói được. Em lè lưỡi.

Cặp gò bồng đảo ngoài khơi của em VN, anh TQ mỗi lần ra chiếm một cái, nói là đất nhà anh vì có xương tổ tiên của anh ở đó. Em VN tức quá bảo vậy ở Gò Đống Đa có ối xương cụ tổ nhà anh, thế thì Hà Nội cũng là của nhà anh chắc. Anh TQ cay lắm nhưng không cãi được.

Cứ thế, vừa yêu nhau vừa cảnh giác nhau, vừa cãi nhau vừa đánh nhau nhưng vẫn chả đứa nào bỏ được đứa nào. Em VN muốn khép lại quá khứ lắm nhưng nhưng cứ định khép thì lại phát hiện ra anh TQ ngày càng tỏ ra tham lam, muốn dỡ hẳn cái giậu mồng tơi đi để “tớ sang ở với mình cho vui”.

Anh Mỹ thì tinh quái, thấy đôi tình nhân trục trặc, biết là cơ hội đã đến nên lại ra sức tìm cách ve vãn tán tỉnh em VN. Còn em VN trước đây chê đứng chê ngồi anh Mỹ bây giờ cũng liếc mắt đưa tình vì em đã chán thằng tình nhân kia rồi.

Tháng trước, anh Mỹ đến nhà em VN chơi nhân dịp 15 năm hai đứa không ghét nhau nữa. Anh ngồi ở giữa nhà, lớn tiếng phản đối đứa nào âm mưu dùng vũ lực chiếm cái hồ xóm em làm anh TQ tức điên lên vì anh cho rằng cái hồ ấy là “lợi ích cốt lõi” của anh (khoản nhận vơ là anh TQ nhất). Anh Mỹ cho rằng anh í cũng có lợi ích ở đấy nhưng không nói là cốt lõi (chắc anh muốn khoe là anh sắp chiếm được trái tim em VN rồi). Điều này làm cho em VN can đảm hơn, hình như em đang muốn thoát khỏi cái bóng của anh TQ. Tuy em vẫn còn yêu nhưng em muốn yêu bình đẳng hơn chứ không phải vừa yêu vừa sợ. Những nhà gần em thấy vậy thích lắm vì nhà nào cũng đã từng bị anh TQ chim chuột và bắt nạt, thậm chí bị cưỡng hiếp lấy mất một cái gò bồng đảo như chị Phi Luật Tân chẳng hạn. Họ đồng thanh cùng em VN đưa vấn đề tranh giành cái hồ xóm em ra làng phân xử chứ không muốn để anh TQ tán tỉnh và áp đặt cho từng em một mà anh gọi là đàm phán song phương.

Anh TQ thấy thế nhảy dựng lên, tuyên bố, đe dọa đủ thứ, chắc là vừa ghen vừa sợ đụng chạm đến quyền lợi của mình. Anh mắng anh Mỹ xúi giục em VN và hàng xóm của em chống lại anh. Anh mang tàu với súng đạn ra khơi bắn ầm ầm để diễu võ giương oai. Anh cho đem cả phi đạn Đông Phong-21D ra khoe, nói đó là loại hoả tiễn bắn chính xác tới 1500 cây lô mếch để diệt tàu sân bay (ý là của anh Mỹ tình địch). Anh Mỹ thì vẫn nhởn nhơ hát karaoke, coi như không có chuyện gì: “Em yên tâm, ba thứ vặt vãnh đó trước khi đụng vào tầu của bọn anh thì nó đã tan xác rồi”. Khi lên tiếng, anh TQ không dám dọa trừng phạt xóm em về quân sự nhưng dọa trả đũa về kinh tế. Em VN và mấy chị hàng xóm cười hic hic, yên trí, có gì đã có anh Mỹ bao. Xóm em thừa biết anh TQ tuy hung hăng là vậy nhưng vẫn khiếp anh Mỹ vì anh ấy khỏe hơn, giàu có hơn và nói năng dễ nghe hơn, nhất là anh chẳng thèm tơ hào của nhà ai cái gì. Họ bảo anh này đúng là Lục Vân Tiên ở Tây bán cầu.

Mấy hôm sau, anh Mỹ còn mang tàu sân bay đến gần ao nhà em VN, cho máy bay rước em ra chơi để khoe giàu khoe mạnh và để … chim cho kín đáo. Anh còn mang tàu khu trục vào tận bờ ao nhà em VN tán tỉnh, lại mang cả bệnh viện hàng không đến chữa bệnh cho em nữa:

Cho mái tóc em xanh lại ngày xuân
Cho thịt da em lại nở trắng ngần

(Chắc không phải là bênh giang mai, he he mặc dù bị anh TQ cưỡng hiếp ba lần, một lần ở giậu mồng tơi, một lần ở Hoàng Sa và một lần ở Trường Sa).

Việc em VN đầu mày cuối mắt với anh Mỹ, tất nhiên anh TQ theo dõi từng ly từng tí nên biết cả nhưng có đứa nào dèm pha kích đểu thì anh cay đắng nói chuyện đó là chuyện của hai đứa chúng nó. Nhưng cô con gái yêu kiều xinh đẹp mà anh đã từng độc quyền ve vuốt ngót năm chục năm (đã trừ hơn 10 năm giận nhau ra) bây giờ để thằng khác chim chuột trước mặt mình sao lại không ghen cơ chứ. Tuy anh TQ không đặt nặng nề về khái niệm trinh tuyết, có thể cho anh Mỹ yêu chung nhưng cú nhất là em VN muốn thoát khỏi vòng cương tỏa của anh. Cứ đà này rồi bồ bịch của anh TQ trong cái xóm ấy phản lại anh hết, cuối cùng chỉ còn trơ lại anh với thằng Bắc Hàn chơi với nhau, mà thằng Bắc Hàn thì cả làng người ta ghét. Bụng nghĩ vậy nhưng lại không có lý do gì nên anh TQ đành phải nói chúng nó ôm ấp nhau ứ liên quan gì đến mềnh.

Bạn bè của anh Mỹ thấy thế thì rào rào vỗ tay cổ vũ, bạn bè anh TQ cũng thấy hân hoan vì toàn bạn giả vờ cả nhưng không dám ra mặt. Còn mấy chị ở tận Bắc Âu trung lập như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan chẳng nói gì, quay sang ru con:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.


TƯỜNG THỤY

THƯƠNG GIANG
  • Số bài : 5247
  • Điểm: 12
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 18.05.2009
  • Nơi: Xứ sở bạch dương
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 11.02.2012 05:57:45
0
Anh Tư quí mến!
Cám ơn bài hát anh gửi tặng bé Mít.Sẵn đề tài thiếu nhi em gửi anh câu chuyện viết về 2 đứa trẻ để anh đọc nghe.



Hai đứa trẻ



Đến lượt anh đi rồi đấy! – Lâm giục Phúc.
- Đi cái con khỉ, tao chuyển con xe sang đây mày mất toi thằng tướng rồi còn đánh đấm gì mà đi … Thôi, quá tam ba bận chẳng còn ân hận gì nữa …
- Dở quá! Thế mà em không tính ra nên mới đi như vậy … Anh cho em hầu thêm một ván nữa để em còn “gỡ gạc” tý chút, Lâm năn nỉ.
- Gỡ làm đếch gì cho mệt! Hôm nay coi như hòa, tao không bắt chú mày phải khao rượu như đã thỏa thuận đâu. Khi nãy tao đã nói chỉ chơi thêm một ván này nữa là kết thúc cơ mà. – Phúc đứng dậy.
- Em đùa vậy thôi chứ thua anh ba ván liên tiếp mà chỉ mất có “xì tô gờ ram vốt ka”(100ml rượu trắng) thì nhằm nhò gì! Nhạt toẹt! Cái chính là em muốn được chơi tiếp để “sư phụ” chỉ giáo thêm mà học hỏi chứ em biết thắng được “thiên hạ đệ nhất …cờ” như anh đâu phải dễ mà dám mơ …
- Chợ búa đuội như thế này thiếu chó gì cơ hội cho chú mày học đánh. Riêng hôm nay chỉ đánh “ví dụ” vậy thôi , vì tao còn muốn dọn hàng sớm để về nhà chuẩn bị tối cho cháu đi dự Tết …
- Ừ nhỉ! Anh nói em mới nhớ ta … Vậy thì tối nay anh em mình nhất định sẽ uống với nhau ở đó nhé! Giờ em cũng dọn hàng luôn …

Phúc gật đầu rồi lững thững đi về sạp hàng của mình.
Rõ khốn nạn! Năm nay thật là xui xẻo hết chỗ nói … Chẳng bù cho năm ngoái, trời rét đậm lại kéo dài nên hàng áo đúp -lôn-ka* bán chạy chợ. Mỗi ngày bán lẻ cũng được dăm chiếc, có những ngày thứ bảy chủ nhật nhiều nhà bán được 15, 20 chiếc, lãi suất thấp nhất cũng từ 18 đô trở lên chứ có ít đâu. Nhìn họ bán mà chóng mặt, xót cả ruột. Trong khi đó, Phúc không có vốn nên phải lấy toàn những loại quần len, thể thao, áo phông dài tay … rặt đồ rẻ tiền lại tồn kho lâu không bán được, người ta mới giao xu-khôi** cho anh nên nhiều khi chẳng cả có người mua mở hàng … Đúng là lực bất tòng tâm! Cứ cái cảnh không vốn, đi lấy hàng tồn bán chẳng đủ chi phí cho tiền thuê chỗ chứ có đâu mà dành dụm được tiền …
Sau nhiều đêm trăn trở, Phúc quyết định gọi điện về Việt Nam, nhà nghèo nhưng thương cảnh gà trống nuôi con nơi đất khách quê người, mẹ Phúc phải cắt nửa mảnh vườn bán đi chuyển sang cho anh làm vốn. Nhận được ba ngàn đô mẹ gửi, Phúc hăm hở đi lấy hàng từ đầu vụ, hy vọng năm nay sẽ kiếm được ít tiền đủ mua hai vé máy bay đưa thằng Đức về cho bà cháu gặp mặt. Trớ trêu thay, năm nay lại không có mùa đông! Suốt từ tháng 11 đến bây giờ tuyết chỉ rơi có mấy ngày mà chưa kịp chạm đất đã tan hết rồi còn đâu … Đã thế tình hình an ninh, chính trị luôn biến động, bất ổn. Ai đời có mấy tháng mà bầu cử tới ba lần, rồi lại còn ngày lễ, ngày tết nữa, toàn rơi vào thứ 7, chủ nhật thì lấy đâu ra người đi chợ mà mua hàng cơ chứ ???
Tháo gấp xong đống hàng Phúc thấy rời rã cả người …
- Mẹ kiếp! Nhanh thế, ngày mai đã đến hạn phải đóng tiền thuê nhà rồi, chợ đuội mọi người cũng chẳng bán được thì biết xoay đâu ra tiền bây giờ? – Phúc lẩm bẩm chửi thầm khi bước chân về tới cửa căn hộ hai bố con đang thuê .
- Con chào bố! Hôm nay bố về sớm quá nên con chưa kịp làm mì cho bố rồi …
Miệng nói, tay thằng Đức định cầm bình đi lấy nước để đun, nhưng Phúc ngăn lại bảo:
- Thôi con không phải úp mỳ cho bố nữa đâu. Con chuẩn bị giày dép, bố tắm xong sẽ đưa con đi dự Tết như năm ngoái ấy …
- Thật hả bố? – Thằng Đức reo lên sung sướng. Thế thì con phải chuẩn bị để hôm nay bố con mình mặc đẹp mới được. Con sẽ lau giày cho cả bố nữa. Thằng Đức hăm hở chổng mông bò vào gầm giường lôi ra cho bố đôi giày bám đầy bụi và mạng nhện. Nó vớ lấy cái giẻ rồi hí hoáy lau. Xong việc nó để giày, tất, quần áo của bố lên ghế rồi tự chuẩn bị mặc quần áo, tìm tất, đi giày cho mình và háo hức ngồi đợi bố.
* *
*
Hai bố con Đức đến nơi cả hội trường đã chật kín. Sau phần phát biểu của ban tổ chức, của các vị đại biểu, đến phần liên hoan mừng Xuân. Tiếng mở sâm-panh nghe lốp bốp, tiếng cụng ly lanh, tiếng chuyện trò, chúc tụng nhau … bị nuốt chửng bởi tiếng nhạc đã nổi lên.
- Bố ơi! Cho con ra chơi với các bạn một lát được không?
- Nhưng con nhớ phải ăn gì đi kẻo đói nhé. – Phúc dặn con.
- Vâng. – Thằng bé hớn hở chạy.
Phúc nhìn theo thì thấy cu Đức đang chạy về phía bé Thảo. Anh yên tâm … Nào, anh em mình cạn ly … Phúc ngửa cổ dốc cạn chén.
Đức chạy đến gần đám trẻ con thì dừng lại. Đúng lúc ấy, bé Thảo nhìn thấy, nó liền bỏ đám bạn chạy ào về phía Đức, mừng quýnh hỏi:
- Cậu đến lâu chưa? Ra đây chơi với các bạn đi, vui lắm. Đi nào … - Bé Thảo định kéo tay Đức nhưng nó rụt lại lắc đầu:
- Tớ không muốn chơi đâu …
- Cậu làm sao thế? Vừa mới đến à? Chắc là đói phải không? Ra kia bọn mình lấy bánh chưng ăn xong thì chơi nhé!
Thằng Đức khẽ gật đầu vẻ bẽn lẽn.
Thảo chạy ra chỗ mẹ nó đang đứng rồi quay trở lại với đĩa bánh chưng trên tay. Nó kéo Đức đi tìm chỗ để ngồi. Vất vả lắm hai đứa trẻ mới tìm được một chỗ trống cuối góc bàn đặt cành đào, khuất sau cột nên chẳng có ai trông thấy chúng nó.
- Này, cậu phải ăn hết góc bánh chưng, mấy cái nem với miếng chả này không đói thì chẳng có sức mà chơi đâu. Thảo đưa đĩa bánh cho Đức.
- Thế cậu không ăn à?
- Không! Tớ chẳng thích. Hôm qua mẹ tớ gói bao nhiêu là bánh nên tớ đã ăn chán rồi. Giờ cậu cứ ngồi đây ăn một mình nhé, tớ chạy ù ra ngoài kia, chỉ một loáng là vào ngay thôi. Vừa nói Thảo vừa chạy biến vào đám đông. Quả nhiên, chưa đầy chục phút sau nó quay trở lại, hai tay lại lễ mễ bưng đĩa thức ăn đựng trong chiếc đĩa nhựa mỏng mảnh nên nó chỉ sợ đổ, đã thế ở nách nó còn kẹp thêm một chai nước khoáng còn non nửa.
- Nước đây, cậu uống đi không nghẹn đấy! Còn đĩa bánh này tớ lấy phần để tý nữa cậu mang về lúc nào đói thì ăn – Thảo đặt đĩa bánh xuống bàn rồi đưa tay ngang mặt quệt mồ hôi.
- Sao Thảo lấy nhiều thế? Không sợ người ta mắng à? – Đức tròn mắt hoảng hốt.
- Cậu chẳng biết gì cả! Người ta mời mọi người đến đây, ăn bao nhiêu mà chẳng được, đồ ăn còn thừa đầy trên bàn kia kìa. Cứ việc ăn tự nhiên, thoải mái có mất tiền đâu mà lo. Nếu không ăn ở đây, mình có thể lấy phần ấy để mang về lúc nào thích thì ăn chứ có phải mình ăn cắp đâu mà cậu sợ. – Bé Thảo giải thích cho bạn theo cách suy nghĩ của nó đến là ngộ nghĩnh.
Thằng Đức uống một ngụm nước rồi lại tiếp tục ăn. Lâu lắm rồi nó mới có được bữa ăn ngon miệng và no nê như thế, còn bé Thảo ngồi nhìn bạn ăn. Chợt nó như nhớ ra điều gì quan trọng, nó bảo Đức:
- Cậu ngồi dịch ra ngoài này một chút.
- Để làm gì? – Đức ngơ ngác không hiểu.
- Đưa lưng đây cho tớ xem dạo này cậu còn hay bị bố đánh nữa không?
- Không! – Thằng Đức oằn người để tránh nhưng Thảo đã nhanh tay lật áo lên.
- Thế này mà cậu bảo không á? Vẫn còn đầy vết tím trên lưng mà còn định giấu. Tớ biết ngay mà …. Какой он злой!!!*** – Mặc dù bị mẹ bắt phải thường xuyên tập nói tiếng Việt, nhưng đôi lúc gặp từ nào khó Thảo lại dùng tiếng Nga.
- Đấy là vết cũ từ lâu rồi. Thằng Đức chống chế. Mà cũng chỉ tại rượu làm bố tớ say, chứ bình thường bố tớ yêu tớ lắm, chứ chẳng đánh tớ đau thế đâu …
- Xì … ì …ì! Tớ chẳng tin! – Bé Thảo trề môi phản đối. Bố tớ thỉnh thoảng cũng bị say rượu nhưng có bao giờ đánh tớ hay nói to đâu. Say rượu bố tớ kêu đâu đầu rồi đi ngủ. Mẹ tớ bảo bố cậu có chuyện buồn nên hay cáu giận vô cớ, khiến cậu bị đòn oan thôi. Bố mẹ tớ thương cậu lắm nhưng tiếc là nhà tớ lại chuyển đi chỗ khác mất rồi. Mỗi lần mẹ tớ nấu món gì ngon lại nhắc tới cậu. Nếu ở gần thì ngày nào mẹ tớ cũng sai tớ mang đồ ăn xuống cho cậu như trước kia cho mà xem. Chán thật! – Thảo buông tiếng thở dài, mắt thoáng buồn …
- Ừ! Từ ngày nhà cậu chuyển đi tớ nhớ lắm.. . Cả ngày tớ bị nhốt trong nhà, chẳng có ai để chơi ngoài cái máy điện tử bấm tay với trò chuột hứng trứng … nhìn mãi nhức hết cả mắt mà vẫn phải chơi vì chẳng có trò gì khác. Thằng Đức buồn rầu than thở.
- Cậu đừng chơi trò ấy nữa không thì sẽ hỏng mắt rồi lại phải đeo kính cận như tớ đấy. Hôm nào tớ xin mẹ gửi cho cậu mấy hộp xếp hình, ghép tranh hay hơn. – Bé Thảo an ủi bạn.
Ngày trước nhà Thảo ở tầng trên, nhà Đức ở tầng dưới, hai nhà chơi thân với nhau từ khi chúng nó vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Rồi chúng nó được sinh ra cùng một năm, bé Thảo sinh sau gần 3 tháng và hai gia đinh cứ trêu nhau là thông gia. Tất nhiên chúng nó chẳng biết gì chuyện đùa của người lớn mà chỉ biết ngày nào mẹ Đức cũng lên nhà Thảo chơi, nếu không mẹ Thảo lại dắt Thảo xuống. Người lớn ngồi xem phim, tán gẫu, còn chúng nó ngồi xếp hình, nghịch đồ chơi với nhau. Đó là tháng ngày hạnh phúc nhất của Đức mà khi ấy nó đâu có biết …
Cuộc sống tưởng như bình lặng trôi đi. Bỗng dưng, giông tố ở đâu bất ngờ ập xuống gia đình của Đức và bố nó đã không có đủ sức chèo chống, níu giữ nổi con thuyền hạnh phúc của mình trước cơn bão cuộc đời … Mẹ Hạnh đã bỏ bố con nó đi theo người bạn mà hai người vẫn cùng đi thành phố xa để lấy hàng …
Lúc ấy nó mới gần 5 tuổi. Đức chỉ nhớ rằng bố mẹ nó cãi nhau rất là nhiều. Mẹ nó khóc sưng cả mắt, còn bố nó quát tháo, chửi mắng, đập phá chán rồi cũng khóc. Mỗi lần như thế, mẹ Thảo đều có mặt. Công việc đầu tiên, mẹ Thảo đưa Đức lên nhà rồi mở phim hoạt hình cho Thảo và Đức ngồi xem, sau đó mới xuống nhà nó để khuyên giải … Ít lâu sau, mẹ Đức đi lấy hàng rồi chẳng thấy về nhà nữa. Bố nó thì say bí tỉ. Mẹ Thảo chăm cả hai đứa chúng nó. Suốt ngày chúng mải mê xếp hình chán rồi lại xem hoạt hình nên có biết buồn, nhớ gì đâu. Bẵng đi một thời gian, mẹ nó đột ngột trở về, mua cho Đức bao nhiêu là quần áo, đồ chơi, bánh kẹo ….. Nó hỏi mẹ đi đâu mà lâu thế. Mẹ nó nói phải đi làm xa, thỉnh thoảng mới thăm nó được … rồi mẹ ôm nó khóc … Nó mải nghịch đồ chơi say sưa tới mức mẹ nó lặng lẽ đi từ lúc nào chẳng biết …
Chiều tối, bố nó đi chợ về. Vừa nhìn thấy túi quà và hộp đồ chơi, bố nó giận giữ vơ tất cả rồi thẳng tay ném vèo qua cửa sổ. Đức òa khóc ăn vạ đòi khiến bố nó thêm điên tiết, vớ luôn cái roi vụt nó tới tấp. Đau quá nó hét lên thất thanh và cố sức giãy giụa … Cũng may hàng xóm nghe thấy, họ đập cửa mãi rồi phải gọi cả công an đến bố nó mới chịu dừng tay. Khi ấy thằng Đức quằn quại rồi lịm đi trong đau đớn, sợ hãi …, còn bố nó bị lập biên bản về tội ngược đãi, hành hung trẻ em. Nhờ có bố mẹ Thảo xuống giải thích nguyên nhân, hoàn cảnh của gia đình nó và xin bảo lãnh cho bố nó chỉ phạt hành chính. Sau trận đòn nhớ đời ấy, thằng Đức thật sự khiếp đảm và hoảng sợ. Chẳng thế mà có đôi lần mẹ nó cũng vẫn lén lút đến thăm, dù nó nhớ mẹ tới mức vừa nghe tiếng gọi cửa, nó đã bật dậy như lò so định lao ra mở … nhưng rồi nó vội khựng lại khi nhớ lời bố dặn và trận đòn chí tử nó đã nếm trải … Đức vội vã trở lại giường nằm ép sát vào tường, người run cầm cập và tức tưởi khóc một mình, miệng thì thầm gọi mẹ trong tiếng nấc nghẹn ngào đứt quãng …
Từ ngày mẹ nó bỏ đi, nó không còn nhớ nỗi đã bị bố đánh bao nhiêu trận … Ngày nào đi chợ, bố nó cũng uống rượu , về đến nhà là chửi bới, đập phá. Có hôm vừa mở cửa vào đến nhà, bố nó cúi xuống định cởi giày thì nôn thốc nôn tháo ra khắp nhà rồi gục xuống cạnh đó ngáy … Có hôm thì vô cớ quát tháo thằng Đức rồi đánh đập nó dã man. Những lúc ấy, trước mắt bố nó không phải thằng Đức mà có lẽ là hình ảnh mẹ Hạnh – người vợ lăng loàn, đổ đốn đã làm cho gia đình tan nát, bố con nó phải khổ …, cho nên bao nhiêu thù hận bố nó dồn hết vào ngọn roi trút lên người thằng Đức. Nó đã quen dần với tính thất thường của bố nên mỗi lần thấy bố quát tháo , nó hình dung ra trận đòn roi khủng khiếp sắp sửa giáng xuống đầu nó … thằng Đức chỉ còn biết co rúm người lại, nép vào góc nhà chuẩn bị chịu trận …
Thực ra bố nó là người đàn ông hiền lành tốt bụng và rất yêu thương vợ con, dù hơi cục một chút - ấy là bố nó ngày trước, nhưng từ khi mẹ nó bỏ đi, bố nó đã trở thành một người hoàn toàn khác, hay cáu kỉnh, tức giận vô cớ và uống rượu rất nhiều … Đôi lúc tỉnh rượu, ngồi lặng lẽ hút thuốc trông bố nó rất hiền. Hình ảnh này của bố, Đức rất hiếm gặp vì thường là nửa đêm, khi nó đã mệt mỏi, chìm sâu trong giấc ngủ. Bố lấy dầu xoa bóp những vết roi hằn tím trên người nó. Nhìn nó nằm co quắp ngủ, bố nó lại lặng lẽ bế nó đặt ngay ngắn, kéo chăn đắp lại rồi ngồi ngắm nó. Thỉnh thoảng nó giật mình ngủ mơ, miệng ú ớ, hoảng hốt, người đầm đìa mồ hôi và khóe mắt long lanh giọt nước …bố nó vội ôm ghì sát nó vào lòng, người bố nó rung lên để kìm chế tiếng khóc không bật ra …
- Đức ơi! Cũng may có con là niềm an ủi, nguồn động viên trong cuộc sống này, vậy mà bố lại hành hạ, làm khổ con. Bố đúng là thằng khốn nạn … Trăm ngàn lần xin con tha lỗi … Từ nay bố sẽ không bao giờ đánh con đau thế này nữa đâu. Bố sẽ cố gắng kiếm tiền để bù đắp những thiếu thốn cho con …Bố sẽ quên tất cả, sẽ làm lại từ đầu, sẽ sống cho con, vì con …
Khổ nỗi, chưa quên được nỗi đau vợ bỏ theo người khác thì lại buồn vì chuyện làm ăn thất bại. Bán đất có được ít tiền dồn hết vào lấy hàng thì lại bị đắp đống, ngày nào cũng chở ra, chở vào, mắc lên, tháo xuống mà chẳng bán được. Sang năm hết vụ, lỗi mốt bán rẻ như cho chưa chắc đã được … Mỗi ngày hàng trăm thứ tiền phải tiêu pha, chi phí, biết đào đâu ra? Thằng Đức suất ăn mỗi ngày vẫn là ba gói mỳ tôm chứ đã được cải thiện gì hơn ngoài một vài gói phở ăn liền nhưng rất hãn hữu … Làm sao mà Phúc không khỏi chán đời và anh lại tìm đến rượu để quên đi mọi chuyện.
Phải nói, thằng Đức là đứa trẻ khôn ngoan và rất có hiếu. Bao nhiêu lần bị bố đánh đập , dù rất sợ nhưng nó vẫn thương và quấn bố. Cả ngày nó lủi thủi tự chơi trong nhà một mình rồi lại dọn dẹp nhà cửa, nhặt quần áo bẩn ngâm vào chậu. Đến tối, xả nước sẵn cho bố đi chợ về tắm rồi quay sang đun nước làm mỳ tôm cho bố tắm xong vào ăn. Hôm nào bố nó uống say quá mà ngủ luôn thì nó sẽ phải chờ cho bố ngủ vài tiếng mới đi lấy khăn ấm lau mặt, đắp lên trán chờ bố tỉnh rượu, nó đi đun nước làm mỳ tôm cho bố ăn xong nó mới yên tâm đi ngủ. Hình như trong tiềm thức non nớt của mình nó cũng mơ hồ hiểu rằng, nếu bố nó không ăn mà đói quá sẽ lả đi …, lúc ấy nó biết sống và trông cậy vào ai nữa?


- Sao cậu ăn ngắc ngứ thế, no rồi hả? Thế thì bọn mình ra kia chơi cùng các bạn đi, ngoài ấy vui lắm! – Bé Thảo đập mạnh vào vai khiến Đức giật cả mình.
- Còn đĩa bánh chưng này thì để đâu? – Đức hỏi Thảo.
- Đưa đây tớ dồn vào túi rồi giấu ngay dưới chỗ cành đào này sẽ chẳng ai thấy đâu, tẹo nữa chúng mình quay lại lấy sau.
Hai đứa trẻ tung tăng dắt tay nhau hòa vào đám trẻ con đang ríu rít nô đùa. So với các bạn cùng trang lứa, hai đứa này tỏ ra khôn ngoan và “già” hơn hẳn. Thằng Đức thì dễ hiểu vì hoàn cảnh đã tạo cho nó sự khôn ngoan để thích ứng, còn con Thảo thì có lẽ mấy năm sống cạnh nhà thằng Đức nó đã được chứng kiến mọi chuyện … Con bé vốn thông minh và nhạy cảm nên nó sớm hiểu lẽ đời: biết yêu thương, đùm bọc, chia sẻ cho bạn mình chăng???
Đùa nhau với đám trẻ một lúc, Thảo chạy đi uống nước, thằng Đức cũng chạy theo. Uống nước xong thằng Đức bảo bạn:
- Tớ không đi chơi đâu, cậu ra chơi tiếp với các bạn nhé!
- Cậu làm sao thế, mệt rồi à? – Bé Thảo ngạc nhiên hỏi.
- Tớ phải đi tìm bố tớ đây, suốt từ tối đến giờ chắc bố tớ đã say ở đâu rồi ... – Thằng Đức lộ vẻ lo lắng.
- Lại uống say, thế thì tý nữa làm sao mà về nhà được? – Bé Thảo càu nhàu.
- Thôi Thảo à, cậu chả bảo hôm nay ai cũng vui vì cả năm có một ngày Tết họp mặt mà. Hiếm khi lắm bố tớ mới vui vẻ, cứ để bố tớ uống. Nếu say rồi thì phải bảo bố mẹ Thảo đưa về thôi, tớ sợ rằng, đường xa thế này chắc bố tớ chẳng nhớ mà về nhà đâu.
Thảo im lặng một lát rồi gật đầu.
Không khí trong hội trường vẫn ồn ào, náo nhiệt, rượu bia đồ ăn, hoa quả … nằm ngổn ngang trên bàn. Mọi người càng sôi nổi và tự nhiên hơn khi hơi men đã ngấm. Họ nói cười hỷ hả, nét mặt rạng rỡ niềm vui, nụ cười luôn trực sẵn trên môi … Chỉ có hai đứa trẻ duy nhất không có được tâm trạng ấy. Niềm vui, nét hồn nhiên thơ ngây của chúng đã bị những người lớn đánh cắp mất rồi …
Tiếng nhạc ngày càng chát chúa hơn khi rượu trên bàn đã ngấm hết vào mạch máu của người điều khiển nó … Thảo và Đức cố luồn lách qua đám vũ hội một cách khó khăn …
- Ối … ối ….i …! – Bé Thảo kêu toáng lên khi một cậu thanh niên đang nhảy, tay vung mạnh hất cả vào cặp kính cận của nó. Thằng Đức vội nhoài lao theo chiếc kính. Nó vội chộp lấy rồi đeo cho bạn, miệng xuýt xoa khen may vì kính không bị vỡ … Đám thanh niên vẫn đang quay cuồng, say sưa theo tiếng nhạc, chẳng ai để ý đến hai đứa trẻ trong hội trường đông nghịt người ấy …
- Cậu đưa túi bánh cho tớ xách, một tay cậu giữ kính, một tay túm lấy tớ cho khỏi lạc. Phải cẩn thận , lần này mà bị rơi kính là vỡ mất đấy. Đức quay sang dặn Thảo. Hai đứa trẻ 9 tuổi: một gầy nhẳng như cò hương, một đeo kính cận nom “già” như “bà cụ” lại chen lấn, len lỏi, luồn lách cố nghển cổ, kiễng chân nghiêng ngó tìm … một người lớn giữa mấy trăm con người trong không khí ồn ào của bữa tiệc mừng Xuân.

Xuân Kỷ Dậu – 2005
TG

*-Áo khoác bằng da thú may lộn rất ấm.
**-Lấy hàng trước sau đó mới thanh toán trả chậm dần.

sen dat
  • Số bài : 3043
  • Điểm: 34
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.03.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 11.02.2012 16:38:15
0
Hôm nay SĐ mang ít hoa đón chào ngày Valentine, mong câu lạc bộ tri âm sẽ có nhiều tác phẩm hay nhân lễ Tình Yêu!

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/49776/0DBC184F38234C38A4F1DD6498BA0555.JPG[/image]

[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/49776/0FCD5665AE8B45D49CECAEB860BBC156.JPG[/image]
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.02.2012 16:41:36 bởi sen dat >
Attached Image(s)

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 21.02.2012 08:58:55
0
SH mới về quê nội ( Quảng Nam ) ra, có bài mới gởi Câu lạc bộ đây

HOÀI NIỆM SÔNG QUÊ

Một chiều qua bến sông quê
Bờ lau năm cũ vọng về tuổi thơ
Thương ai tháng đợi năm chờ
Đêm nghiêng tiếng võng... ru hờ ngày xưa

" Cái cò đi đón cơn mưa "
Riêng em lặng lẽ đón đưa đời mình
Cũng thân trúc mọc đầu đình
Mà sao trắc trở, gập ghềnh phận duyên

Sông quê sóng vỗ mạn thuyền
Đôi bờ ôm ấp mấy biền dâu xanh
Câu hò thao thức năm canh
Em ru giữa bóng trăng thành tri âm

Tôi về sau mấy mươi năm
Chút hương ngày cũ như thầm đâu đây
Sông quê con nước vơi đầy
Người... sao tựa cánh chim bay cuối ngàn

Huế 20/2/2012
Sông Hương
Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

damotlanyeunhau
  • Số bài : 3892
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 11.11.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 24.02.2012 19:33:52
0


Ngày Đầu Năm Mới

Với tay nhánh lộc đầu xuân
Mưa bay lất phất tân niên giao hòa
Mặt trời lơ lửng nơi xa
Hôn lòng đất ấm - thướt tha áo màu

Vườn Xuân muôn sắc chen nhau
Bức tranh ngày mới đẹp như thiên đường
Gởi lời tân chúc một năm
Nhâm Thìn may mắn, an khang, phước đầy

Tình xuân duyên dáng trong tay
Tràn đầy nhựa sống mỗi ngày yêu thương
Dẫu cho cuộc sống vô thường
Tình yêu, tình bạn, ấm nồng trong tim


Tình người viễn xứ lưu vong
Mai vàng trước ngõ ngợi mong quê nhà
Gói chặt yêu dấu thiết tha
Gởi nhau lời chúc đậm đà hương Xuân

aB - 23rd Jan 2012
Mồng 1 tết nguyên đán năm Nhâm Thìn


damotlanyeunhau
  • Số bài : 3892
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 11.11.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 24.02.2012 19:41:15
0
sau tết rùi níu có bị quở chắc cũng hỏng đến nỗi xui nguyên năm đâu huh anhlynh huh?? mà cũng đâu có thấy ai đốt đuốc theo cánh chim hải âu đi tìm Múi đâu hichic bùn wóa

Bớ anhlynh, anh SH, winh đa đa , winh ĐH, chị NTN, anh Tóc, SA, chị Ly, chị cả và các anh chị thân thương (chưa iu) ơiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii




damotlanyeunhau
  • Số bài : 3892
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 11.11.2008
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 24.02.2012 19:43:28
0



Giọt Cafe đầu năm

Giọt cafe cho em
Giọt thương nhớ đầu tiên
Mưa ra khơi nặng hạt
Lất phất những êm đềm

Giọt cafe trong đêm
Một màu khác chi đâu
Tóc thơm mùi nắng hạ
Dệt mùa xuân mai sau


Giọt cafe đầu tiên
Bơ vơ nơ đáy cốc
Giọt thơm nồng miên man
Trào dâng nguồn thổn thức

Cafe lan vào mộng
Làn mây mỏng gối đầu
Buông xõa suối tóc bồng
Sợi quấn quít hồn nhau

Giọt cafe đầu tiên
Anh còn nhớ hay không?
Hoa xuân thơm đất khách
Ao ước phút gần anh

Ly cafe đong đầy
Từ giọt nhỏ đầu tiên
Cafe ấm trong tay
Vị đắng ngọt môi mềm

aB - 25th Jan 2012


dohop
  • Số bài : 516
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.04.2009
  • Nơi: Nam Bán Cầu
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 27.02.2012 07:22:52
0
Giọt cà phê anh nhớ
 
Giọt cà phê cho anh
Hôm xưa trời đổ lạnh
Giọt đậm màu mây tóc
Hay mắt huyền long lanh?
 
Giọt cà phê hương em
Mặn mà như nước mắt
Giọt ngọt buồn thấm tim
Dư âm tình chẳng cạn
 
Giọt mặn ngọt đầu tiên
Linh hồn anh thổn thức
Vị buồn ngon theo anh
Ru anh khắp mọi miền
 
Giọt cà phê tha hương
Thay em, giọt vấn vương
Giọt ngọt thơm môi em
Dìu gót anh đến trường
 
Giọt đậm màu tóc mơ
Giữ hồn anh tươi trẻ
Nhuộm ngọt sợi bạc phơ
Trên trán anh cô lẻ
 
Giọt cà phê kỷ niệm
Vị mặn anh chẳng quên
 
Hương đời hay duyên mộng
Lá thu đến bên thềm?
 
dohop – Nam Bán Cầu 27.2.2012
 
 
Lâu lắm rồi hộp mới làm thơ cho tạm xong một bài đó Wing Muối. Cứ ngỡ là wing đã đi mất…
Hôm nào… có điều kiện, aB uống thử ly cà phê có một giọt nước mắt trong đó đi… Nếu không có điều kiện thì bỏ chút xíu muối vậy… hộp có thời gian bán cà phê, thường bỏ tí xíu muối nhưng chắc là có lần lỡ tay nên khách biết.
Không biết vì sao mà cà phê muối bé hộp làm không còn giống ngày xưa nữa, chắc là phải cần giọt nước mắt thật sự… Nước mắt bé hộp chắc đã có lẫn giọt mồ hôi hay đã lẫn quá nhiều bụi đời… Hic


[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/68461/A1FD905BB4AC4693A0C03CC34FC066DB.jpg[/image]
Attached Image(s)

dohop
  • Số bài : 516
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.04.2009
  • Nơi: Nam Bán Cầu
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 01.03.2012 13:28:48
0
Con Mèo có tên là Vịt



Vườn nhà tôi đã có hai con mèo – một thường trú và một tạm trú. Một con là mèo cái lớn tuổi màu vàng và lớn như một con cọp thu nhỏ; con mèo kia màu vàng nhạt hơn, là con trai nhưng đẹp và có cái dáng nũng nịu như con gái, con này có đeo cái vòng màu đỏ ở cổ, một dấu hiệu của một con mèo có chủ. Tôi không nhớ rõ bọn chúng đã chọn vườn nhà chúng tôi làm “quê hương” từ lúc nào.

Tôi không bao giờ muốn đụng hai con mèo này, tuy tôi có ưu tiên cho con mèo lớn tuổi mà tôi thường gọi là “Sư Phụ” khi cho bọn chúng ăn, lý do là con mèo đẹp (tôi đặt tên là “Búp Bê”) có chủ của nó cho ăn rồi, và cho mèo ăn nhiều đồ ăn của người ta chỉ tổ làm cho nó bị bệnh tiểu đường mà thôi. Tôi hay đuổi con Búp Bê đi vì không muốn làm cho nó bệnh và cũng để tiết kiệm tiền mua đồ ăn mèo.

Từ lúc còn nhỏ ở Việt Nam, đã bao nhiêu lần tôi phải từ biệt mấy con vật nho nhỏ, từ con dế than, dế lửa cho đến con cá xiêm, cá vàng, con sóc, con chó, con mèo… Đời sống của các con thú dễ thương này thường ngắn ngủi và nhiều gian truân, chúng thường phải bỏ sớm cuộc sống tự nhiên đã ngắn ngủi của chúng để làm mồi cho kiến, cho những chiếc xe hai bánh, bốn bánh vô tình, và cho cái bụng đói của… bất cứ ai đang đói, đang thèm thịt ở xã hội Việt Nam. Và vì vậy, tôi đã không muốn nuôi con gì nữa dù biết nó rất dễ thương, dù các con của tôi rất thích.

Một hôm có một con mèo nhỏ có hai màu trắng đen lấp ló ở dưới gầm nhà tôi. Nó là một con mèo nhút nhát nhưng thỉnh thoảng meo meo với cái giọng thật cao như tiếng mèo con. Định mệnh đã cho tôi thấy được cái bụng hơi to của con mèo con gái này. Thế là tôi không nỡ đuổi nó đi; thế là nhà tôi tìm cơ hội cho nó uống sữa, từ sữa dư thừa uống dang dở cho đến sữa tươi mới khui từ trong bình; thế là các con tôi mua đồ ăn mèo ngon cho con mèo “Teen Mum” (nghĩa là bà mẹ “còn con nít”) ăn, bởi vì nó đang có bầu.

Những ngày kế là những ngày chúng tôi google tài liệu về mèo và cùng dẫn đến kết luận là Teen Mum đang có bầu. Bụng nó to dần, và nó hay bị trượt té khi leo cao nên đã bỏ cái thú leo trèo, tuy vậy nó vẫn mắc cở và không để cho tôi “khám bệnh” để có thể cả quyết chính xác một trăm phần trăm về hiện trạng của cô nàng. Một điều tôi để ý là con mèo đực có chủ, con Búp Bê, đã gần như không bén mãng đến nhà tôi nữa (trước đây tôi đã không bao giờ thành công trong việc đuổi nó đi, cho dù tôi có giơ cây gậy hay lớn tiếng hăm dọa cũng vậy), và đó một dấu hiệu cho thấy có một con mèo đang có thai trong vườn nhà, theo “google”.

Con Teen Mum đã vắng mặt hai bữa nay. Tôi mừng thầm là con mèo này đã tự ý rời khỏi vườn nhà tôi, tôi sẽ không còn phải lo cho nó nữa. Thế nhưng tôi đã lầm, chỉ sau hai bữa vắng mặt, nó lại xuất hiện, có vẻ ốm yếu và run lẩy bẩy. Tôi vội vàng cho nó ăn uống nhưng nó ăn rất ít, cùng lúc tôi để ý cái bụng nhỏ đi tí xíu của nó. Thì ra nó vắng mặt vì phải đi sanh, các con của tôi nói như vậy.

Tôi tìm ra được cái ổ mèo con không khó lắm. Có bốn con mèo con xấu xí đen đủi đang bú con Teen Mum, nó vẫn còn đang mệt mỏi và run rẩy. Khỏi phải nói bạn cũng biết là thời gian kế là cái mùa nuôi mèo của các con của chúng tôi.

Rồi Giáng Sinh đến với chúng tôi. Năm vừa qua là một năm mệt mỏi và vất vả, chúng tôi quyết định đi xuống thôn quê trốn sự xô bồ ở thành thị vài ngày, và tôi phải chuẩn bị đồ ăn và nước dư dả tí xíu cho bọn mèo trong những ngày chúng tôi vắng mặt. Sau vài hôm yên ổn ở thôn quê, chúng tôi phải lái xe về lại thành phố. Trên đường về, các con tôi đều nhớ đến mấy con mèo con và bắt đầu đặt tên cho bọn chúng: Rosie (Hồng), Tart (Bánh Ngọt) và Hero (Hùng) là những tên mà tụi nhỏ đã đặt. Bọn nhỏ cho tôi đặt tên một con. “Tên gì cũng được mà, cứ gọi nó là Mèo đi,” tôi nói một cách cóc cần, nhưng đám nhỏ không vừa ý. “Gọi nó là Vịt cũng được!” Thế là bọn nhỏ tạo ra cái tên “Ducky” cho con mèo của tôi.

Chúng tôi về tới nhà trời đã choạng vạng tối. Lúc đầu thì không thấy con mèo nào nhưng sau đó thì chúng tôi nghe được tiếng meo meo của con Teen Mum. Đám nhỏ tìm không ra được mấy con mèo con nên buồn thỉu buồn thiu – tôi đoán là Teen Mum đã đem con của nó đi chỗ khác vì nó nghĩ là chúng tôi đã dọn nhà đi.

Bình thường mắt tôi kém hơn đám nhóc, nhưng lần này tôi lại nhận diện ra được mấy con mèo con đen đủi trong bóng tối – bọn chúng vẫn còn ở đó. Mấy đứa nhóc mừng lắm, và tụi tui làm cái ổ khác cho mèo con. Lần đầu tiên mấy đứa nhỏ được đụng mấy con mèo con – bọn mèo con chỉ mới vừa mở mắt được vài hôm, vẫn xấu xí và vẫn còn muốn ngủ.

Chúng tôi nhìn được đám mèo con lần nữa vào sáng hôm sau trong cái ổ mới. Đến chiều tôi đi làm về thì mèo con đã biến mất tiêu hết, chúng tôi đều hỏi Teen Mum “Mèo con đâu?” và nó trả lời “Meo!” Trong hai tuần liên tiếp tôi đi kiếm mèo con ở đủ nơi trong vườn rồi chịu thua. Con Teen Mum không có vẻ gì buồn, tôi theo dõi nó để kiếm ổ nhưng bất thành. Thế là đám con của tôi có dịp nghiên cứu google về Tâm Lý Mèo, mèo mẹ sẽ làm gì nếu mèo con bị chết…

Khoảng hai tuần sau, tôi đang ở sở làm thì được tin nhắn từ bé Ba là “Mấy con mèo con đi ra ngoài rồi, tụi nó lớn lắm!” Tôi về nhà thăm đám mèo con đang đùa giỡn bên cạnh một Teen Mum hãnh diện. Đám con tôi đã phân chia tên cho mấy con mèo con – tụi nó bây giờ mới có nét khác nhau, mặc dù riêng tôi vẫn không phân biệt được con nào là con nào.

Từ từ tôi mới bớt lẫn lộn mấy con mèo. Tôi để ý thấy Rosie thì nhỏ con và nhút nhát; Tart nhìn giống Rosie nhưng rất nghịch ngợm, hay đi theo và bắt chước những cử chỉ của mẹ nó; Hero thì ham ăn và khi ăn thì không cần biết chuyện gì đang xảy ra, trời mưa hay dù có ai đụng nó cũng vậy; Ducky và Hero khá giống nhau, cả hai cùng có bộ lông thật dài nhưng Ducky không ham ăn. Lúc đầu tôi chỉ phân biệt được Hero với Ducky vào lúc mấy con mèo đang ăn, con nào ăn xong sau cùng phải là Hero, sau này bé Hai cho tôi biết mặt của Hero dài hơn tôi mới để ý thấy khuôn mặt nhiều bề ngang và cái nét ngây thơ của Ducky, đặc điểm này làm cho nó giống con mèo giả bằng vải nhồi bông thật dễ thương. Lúc đầu Ducky có thật nhiều ghèn ở mắt làm cho mắt nó dính lại và nó xấu nhất, chắc là vì vậy mà nó đã trở thành con mèo của tôi, với cái tên là “Vịt”.

Khi Ducky hết bị bệnh ghèn ở mắt thì nó dần dần trở thành dễ thương và ngộ nghĩnh nhất trong đám với đôi mắt thật to và bộ lông xám đen thật dài. Nó dạn dĩ nên ai cũng dễ dàng đụng nó và vuốt bộ lông thật dài của nó, kể cả tôi. Và để công bằng, tôi bắt đầu vuốt ve mấy con mèo khác, kể cả con Sư Phụ. Tuy lớn tuổi và có vẻ mặt hung dữ như cọp, Sư Phụ thỉnh thoảng bị đám mèo con khều chọc và nó hay nhường đồ ăn mèo cho đám mèo con.

Gia đình tôi như vui hơn và “đông người” hơn. Đám mèo con khỏe mạnh, ăn nhiều và nghịch ngợm cũng dữ dội nhưng tôi bắt đầu lo về tương lai của đám mèo. Tôi đã có ý “thành thật khai báo với chính quyền cách mạng” (một kiểu nói đùa có nghĩa là báo với Hội Đồng Thành Phố nơi tôi ở), họ có thể tới giúp tôi bắt mấy con mèo hoang này đi và họ sẽ lo việc phân phát mèo cho những ai thích chúng. Tôi đã không làm điều đó vì sợ họ hủy đám mèo trong mùa nghỉ lễ Giáng Sinh, cho dù hủy một cách “nhân đạo” cũng vậy, hơn nữa đám mèo con còn nhỏ quá, chúng tôi không thích gia đình bọn chúng bị phân tán; nhưng quan trọng nhất, chúng tôi sợ nhân quả – chúng tôi đã hiểu quá rõ cảnh ly tán gia đình rồi!

Những nghiên cứu với google cho thấy là về lâu về dài, có nhiều lý do tế nhị chúng tôi không thể để bầy mèo sống chung với nhau như vậy. Có lẽ chúng tôi phải cho Teen Mum và Rosie, là hai con mèo cái, ra riêng. Bé Tư khóc phản đối vì Rosie là của nó. Tôi nghĩ là bất cứ ai đến xin mèo con, tôi sẽ để cho họ chọn, và như vậy thì Ducky có nhiều cơ hội để đi nhất – nó nhìn dễ thương nhất và dễ dàng bắt nó nhất.

Mấy bữa nay Ducky có làm mất lòng bé Ba vì cái tội hay giỡn với mấy con gián của nó. Rồi bỗng dưng Ducky vắng mặt khá lâu. Thỉnh thoảng một con mèo con vắng mặt trong giờ ăn nhưng thường thì chỉ nửa tiếng đồng hồ sau sẽ quay về. Lần này thì chúng tôi mất Ducky thật rồi, đã qua ba hôm rồi tôi không thấy Ducky, tôi đi lục những nơi có thể nguy hiểm cho đám mèo con – các chậu nước, gần miệng cống, v.v. rồi kết luận là trẻ em đi qua chỗ nhà tôi đã bắt cóc Ducky. Tôi thầm mừng là mình không phải lo về một con mèo nữa. Tôi an ủi các con là Ducky mê chơi với trẻ con sẽ không nhớ mẹ của nó.

Nhà tôi để ý thấy Teen Mum có vẻ buồn. Mỗi ngày qua, tôi có những khoảnh khắc nhớ Ducky, nhớ đến bộ lông dài và mượt cùng với khuôn mặt hết sức ngây thơ của nó. Tôi nói với các con tôi là sẽ có ngày Ducky sẽ trở về thăm mình nếu nó ở quanh đây. Một hôm bé Tư nói với tôi là chị Ba nó thấy Ducky đang leo hàng rào, thế nhưng tôi hỏi bé Ba thì biết là con bé chị chỉ nói đùa thôi.

Ducky mất tích được một tuần thì tôi được tin nhắn từ bé Hai nói rằng “Ducky chết rồi!” Trong sự ngỡ ngàng, tôi ráng nhớ xem mình đã sai sót gì trong việc tìm kiếm Ducky trong vườn nhà. Nhưng tin nhắn đến nữa, nói “bé Ba thấy Ducky ở đường Smith” (cách nhà tôi khoảng hai trăm mét). Trong đầu tôi lại suy luận tại sao Ducky đi xa như thế - Ducky mê chơi đi lạc hay trẻ em bắt nó đi rồi không dám trình với cha mẹ? Ducky bị xe đụng? Tin nhắn lại đến “Không chảy máu. Ducky bị mất nước, bị dehydration?” Bao nhiêu suy nghĩ đến với tôi làm tôi lặng im, không buồn nói chuyện với bạn bè đi cùng xe trong khoảng một thời gian dài ngày hôm đó.

Tôi nhớ Ducky kinh khủng, rồi tôi nhớ đến ông anh vượt biển mất tích đã quá lâu của tôi. Tôi lý luận thêm trong đầu, nếu Ducky là một con mèo lạ ngoài đường bị chết, mình có buồn như vậy không? Nếu Ducky là con mèo xấu xí, mình có buồn không? Mình có tính kỳ thị không? Không phải tất cả các chúng sanh đều đã là anh, chị, vợ, chồng, cha, mẹ, con, cháu, máu mủ của mình sao? Không phải tất cả chúng ta, ai cũng đã từng là một “Ducky” trong một kiếp nào đó sao?

Chắc là “Bồ Tát” Ducky đã muốn nhắc nhở tôi đọc kỹ lại Bát Nhã Tâm Kinh để thấu hiểu hơn về Vô Thường. Quả thật, buông xả một chuyện nhỏ cũng thật khó, đối với tôi – hình ảnh con mèo nhỏ xinh xắn cứ hiện ra và tôi phải cố gắng niệm trong tâm “O Sàriputra, Form is not different from Emptiness, and Emptiness is not different from Form; Form is Emptiness and Emptiness is Form. The same can be said of feelings, conceptions, actions and consciousness*” Tôi cũng niệm Nam Mô A Di Đà Phật cho Ducky nữa.

Sau khi về nhà, tôi và nhà tôi đi nhìn xác Ducky. Tôi cũng hỏi bé Ba sao nó dám quả quyết đó là Ducky. Vì duyên cớ nào đó mà bé Ba phải đi bộ về trên con đường bộ hiếm khi nó đi. Tiếng sột soạt bởi những con rắn mối đã làm cho bé Ba phải quay đầu lại và thấy được xác con mèo đen nâu trong một góc vườn. Khó khăn lắm hai đứa tôi mới thấy được xác con mèo đen dưới một bụi cây, vì không có bé Ba đi cùng. Tôi cũng thấy nó giống Ducky quá, tôi không kết luận chính xác được, nỗi buồn chiếm lấy tâm tôi, và tôi lại niệm thầm cho Ducky.

Một ngày trôi qua, nhà tôi tinh ý thấy ra được những điểm khác biệt giữa con mèo đã chết và Ducky, thí dụ như Ducky không phải chỉ có màu đen không thôi mà nó còn ít vệt trắng trên người nữa. Chúng tôi có một chút hy vọng là Ducky vẫn còn đâu đó trên cõi đời này. Nhưng mà, nếu tôi thức tỉnh thì dù con mèo đen đã chết đó không phải là Ducky, cảm xúc của tôi vẫn phải như nhau.

Nhà tôi an ủi tôi, “có lẽ mình nên mừng cho con mèo đó đã thoát khỏi nghiệp súc sanh. Biết đâu, kiếp kế nó sẽ là người hay sẽ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc?”


Cái khuôn mặt mèo của Ducky vẫn thỉnh thoảng hiện ra trong tâm tôi để nhắc nhở tôi đọc và niệm những gì mà đã có lúc tôi tưởng là thật dễ làm khi mình đã có lòng tin và sự hiểu biết.

Bé Tư bây giờ có vẻ đồng ý với tôi về việc cho hết mèo con đi khi có người tới xin. Không biết chúng tôi có nên chờ cho đám mèo con lớn hơn tí xíu không? Không biết chúng tôi có nên chờ đến khi con Teen Mum sẵn sàng cho một lứa mèo con thứ hai? Bây giờ thì Teen Mum đang nằm lim dim trong bóng mát ở góc vườn, Tart đang nghịch cái đuôi của mẹ nó, Hero đang gác đầu lên chân của mẹ nó ngủ, Rosie đang bú và tôi thì đang lẩm bẩm Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị…

Không biết Ducky đang ở nơi nào và nó đang làm gì?


Dohop, Úc Đại Lợi, đầu mùa Thu 2012.

* Xá Lợi Tử! Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 02.03.2012 12:39:05 bởi dohop >

Tóc nâu
  • Số bài : 4317
  • Điểm: 24
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 01.03.2007
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 05.03.2012 19:52:04
0

Trích đoạn: damotlanyeunhau




Giọt Cafe đầu năm

Giọt cafe cho em
Giọt thương nhớ đầu tiên
Mưa ra khơi nặng hạt
Lất phất những êm đềm

Giọt cafe trong đêm
Một màu khác chi đâu
Tóc thơm mùi nắng hạ
Dệt mùa xuân mai sau


Giọt cafe đầu tiên
Bơ vơ nơ đáy cốc
Giọt thơm nồng miên man
Trào dâng nguồn thổn thức

Cafe lan vào mộng
Làn mây mỏng gối đầu
Buông xõa suối tóc bồng
Sợi quấn quít hồn nhau

Giọt cafe đầu tiên
Anh còn nhớ hay không?
Hoa xuân thơm đất khách
Ao ước phút gần anh

Ly cafe đong đầy
Từ giọt nhỏ đầu tiên
Cafe ấm trong tay
Vị đắng ngọt môi mềm


aB - 25th Jan 2012








Giọt cà phê anh nhớ

Giọt cà phê cho anh
Hôm xưa trời đổ lạnh
Giọt đậm màu mây tóc
Hay mắt huyền long lanh?

Giọt cà phê hương em
Mặn mà như nước mắt
Giọt ngọt buồn thấm tim
Dư âm tình chẳng cạn

Giọt mặn ngọt đầu tiên
Linh hồn anh thổn thức
Vị buồn ngon theo anh
Ru anh khắp mọi miền

Giọt cà phê tha hương
Thay em, giọt vấn vương
Giọt ngọt thơm môi em
Dìu gót anh đến trường

Giọt đậm màu tóc mơ
Giữ hồn anh tươi trẻ
Nhuộm ngọt sợi bạc phơ
Trên trán anh cô lẻ

Giọt cà phê kỷ niệm
Vị mặn anh chẳng quên

Hương đời hay duyên mộng
Lá thu đến bên thềm?


dohop – Nam Bán Cầu 27.2.2012



[image]http://diendan.vnthuquan.net/upfiles/29839/4FE704E6D01946388909631BDDD1D73E.jpg[/image]




EM BỎ …



Em bỏ một viên đường
Vào ly cà-phê nhớ
Loãng tan từng mạch nhỏ
Chảy luân hồi về tim.

Em bỏ những lặng im
Gợi tiếng cười dấu ái
Hồng môi xinh bùa ngải
Tròn một tiếng yêu ai.

Em bỏ cả vương ngai
Lội chân trần cỏ ấm
Về một miền vô tận
Đầy hồng phấn hương hoa…

Em bỏ nỗi xót xa
Khoác lên màu áo lạ
Gọi mùa thu vàng lá
Hay Xuân vừa trong xanh.

Em bỏ được tình anh
Là khi tàn nhịp thở,
Là lúc thôi trắc trở
Giữa hồng trần quẩn quanh !



Em bỏ được hay không ?
Một nỗi lòng khắc khoải,
Một nỗi đau bên trái,
Của tim anh còn hồng…



Tóc nâu




Lâu không còn dịp vào CLBTÂ, nhân nghe em iu aB ( của thuở nào) gọi ơi ới và mấy bài thơ xướng họa của aB , dohop, làm TN ngoáy ngoáy cây bút! Góp vui cùng cả nhà nha ...
<bài viết được chỉnh sửa lúc 07.03.2012 03:31:44 bởi Tóc nâu >
Attached Image(s)
Thơ rơi
[link=http://diendan.vnthuquan.net/tm.aspx?m=787518]Trang chính

Cà Na tn nguyen
  • Số bài : 1717
  • Điểm: 54
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 30.03.2009
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 08.03.2012 04:42:57
0
 

Hôm nay là ngày  Phụ nữ  8 tháng 3. Dù Canada không mừng lễ này nhưng  Cà Na cũng nghe theo lời...khuyến khích của thầy Sen Đất  , đóng góp vào Câu Lạc Bộ Tri Âm một  tuỳ  bút ngắn , tuy nói về  môt tình thân rất riêng nhưng mang ít nhiều hình ảnh của phụ nữ Việt Nam,  để thân chúc các bạn nữ một ngày Lễ thật vui và hạnh phúc. 
Đặc  biệt gửi lời chào tái ngộ đến Ab
.


Thiếu nữ Việt Nam *


      Tôi biết và được quen với Bác đã khá lâu, từ gần hai mươi năm về trước.
     Bác là một người đàn bà Việt Nam có quan niệm sống rất  cổ , có thể nói là phong kiến , và dĩ nhiên rất khó tính.
     
      Ấy mà không hiểu sao , tôi lại  'lọt vào mắt xanh " của Bác !


**
*

   Lúc  mới chân ướt chân ráo từ Việt nam  sang Canada , tôi theo học ở Đại học Montréal . 
     Một hôm đang ngồi học bài trong thư viện, có anh sinh viên Việt Nam đến làm quen . Anh hỏi , tôi có  phải là em chị Lan không ,vì trông tôi giống quá !
     Dĩ nhiên , tôi ngơ ngác trả lời là tôi không có người chị nào tên Lan cả.!
     Anh tiếp tục hỏi chuyện và cho biết anh đang học  Dược năm cuối .Khi biết ngành  học tôi dự định thi vào, một ngành  tương đối khó được nhận, anh cho biết, em trai anh đã thi đậu ngành này và tình nguyện sẽ hỏi muợn tài liệu cho tôi ôn tập chuẩn bị thi .
     Xem như một lần nữa, số tôi luôn có quý nhân giúp đỡ ! 
     Anh tên Quyền, rất hiền .Vượt biên từ những năm trước đó, cố gắng học hành , cho đến khi cha mẹ  và anh em trai được một  người chị bảo lãnh sang Canada sống cùng với anh thì anh đã sắp tốt nghiệp Dược sĩ.
    Sau đó , anh mời tôi đi ăn tối  vài lần.
    Không hiểu  dạo ấy tôi quá chăm chú đến việc  học  hay tôi với anh không có duyên mà một thanh niên  dễ coi , nghề nghiệp ổn định và rất hiền lành ,chân thật như anh lại không khiến tôi rung động. Tổi chỉ xem anh  như bạn , một người bạn tốt.
 
    Khi thi xong và đạt được kết quả khả quan, tôi mang tài liệu đến nhà anh trả .
     Biết anh sống cùng   cha mẹ, tôi mua chút quà Việt Nam đến biếu hai Bác .Bác gái tiếp chuyện và hỏi về gia cảnh , việc học của tôi .
     Sau đó, qua anh Quyền , bác vẫn hỏi thăm tôi .Và khi tôi phone đáp lễ thì bác nói chuyện với tôi rất lâu, từ chuyện nấu ăn bếp núc cho đến những kỷ niệm thời xưa ở Việt Nam của Bác
     Vẫn qua anh Quyền , tôi biết bác là một  người   rất khó trong việc xét nét các cô bạn của con trai,   vì ở Long Xuyên , gia đình anh Quyền nổi tiếng là một phú hộ giàu có , đạo đức từ lâu đời. 
     Và bác là người phụ nữ xinh đẹp , thời mới lớn đã từng được bác nhạc sĩ L, là nguời cùng quê ngưỡng mộ trước khi bác L ra Bắc.
     Không hiểu tại sao tôi và bác, một già một trẻ, lại nói chuyện rất hợp nhau. Bác mến tôi lắm . Khi tôi  tinh nghịch hỏi bác về chuyện bác L , bác chỉ cuời rồi nói thóang qua, khi thì " Lúc bác L ra Bắc, ông ngọai có gọi lại tặng cho chiếc chăn bông ông ngọai dùng lúc cũng  ra Bắc học " hoặc " Hồi ấy, chiều chiều khi bác  dẫn em ra  bờ sông  chơi  thì bác L cũng hay ngồi đàn  gần đấy..." bác kể, trước khi ra Bắc, bác L. có hỏi xin bác một bức ảnh, và theo anh Quyền, từ bức ảnh ấy , bác L. đã viết bài Thiếu nữ Việt Nam. Nhưng chuyện này thực hư thế nào thì tôi không rõ.
    Cứ vậy, bác nói chuyện với tôi như  với môt đứa con gái của Bác . 

   Nhưng đến khi bác ngõ ý muốn đến gặp và thăm Mẹ tôi  thì tôi sợ quá ! Vì tôi ...thích bác chứ không phải con trai Bác !Thế là tôi phải né và tìm cách giới thiệu  anh Quyền với  một cô bạn  cũng đang học Dược , của tôi.


     Những người con của Bác đa số thành đạt, duy chỉ có anh Phú nguời con giữa, thì kém may mắn , anh hay bị động kinh và tâm tính không ổn định. Nhưng anh có hiếu lắm. Sau khi bác trai mất thì anh là người luôn ở cạnh và quấn quýt với mẹ. Mỗi lần  thấy tôi đến  thăm bác , anh  không nói gì nhưng đi ra đi vào ,có vẻ vui , hài lòng lắm.
     Sau đó , ra truờng tôi đổi sang tỉnh bang  khác , xa nơi Bác ở  gần 600 cây số. Rồi công việc, gia đình, tôi  ít về thăm , có lúc hằng mấy năm trời không liên lạc .
     Cho đến nhiều năm sau,  khi  tôi có dịp về thăm thì lúc ấy  mắt Bác đã lòa, chỉ còn nhìn thấy chút ít.
     Sau bao năm xa cách , tôi lại tíu tít cùng Bác . Anh Phú lại đi ra đi vào , nét mặt rạng rỡ.
     Tôi ngồi  xoa bóp tay chân cho bác , nhắc lại chuyện bác L  mà bác hay kể..
 Bác nói với tôi rằng, có lần người bạn cũ bên Pháp gửi cho bác muợn  quyển sách của bác L viết thời còn trong Đảng Cộng  Sản Việt Nam , trong  ấy có môt đọan ngắn viết về Bác . Và bác chợt nhẹ giọng  "     Đọan văn này, bác có chép lại, nhưng  gần đây bác đã đốt bỏ rồi con à "... Lòng tôi chợt chao đi.
     Bao nhiêu năm quen  Bác , giờ đây  khi Bác đã trở thành một bà cụ mái tóc bạc phơ ,mắt  sắp mù lòa, tôi mới hiểu được phần nào nỗi lòng của bác trong chuyện bác nhạc sĩ họ L.
 
     Lát sau  bác nói " Vì anh L tham gia kháng chiến nên ông ngọai sợ, tìm chỗ gã bác" , chỉ là câu bâng quơ trong câu chuyện nhưng tôi hiểu thêm  về kỷ niệm của Bác và tôi cảm thấy mình chia sẻ củng bác , một chút bâng khuâng...Nỗi bâng khuâng ấy , tôi cộng thêm vào tình thân với Bác ,và giữ trong lòng mình những năm không gặp Bác sau đó.

**
*

    Cho đến gần đây,   biết tin anh Phú , người con rất gần gủi với Bác vừa mới qua đời, tôi đã quyết định phải thu xếp công việc về thăm Bác ngay.

  Chuyến xe đò chạy suốt đêm đã đưa tôi trở về Montréal một buổi sáng cuối Thu khá lạnh.
     Người chăm sóc Bác mở cửa cho tôi vào . 
     Bác ngồi đấy , trước bữa ăn sáng được bày ra trong  nhà bếp ., mái tóc bạc phơ nhưng gọn gàng . Bác tẩn mẩn ngắt từng miếng bánh mì nhỏ bỏ vào ly sữa chocolat trước mặt và lẩm bẩm  một mình . Nhưng khi nghe đến tên tôi thì bác  ngước đôi mắt vô hồn nhìn lên  hỏi gặng  lại đôi lần cho rõ rồi chợt tỉnh táo ,bác hỏi tôi về chuyến đi , dục người  chăm sóc mang nước  ra cho tôi và dù phải gắng sức nói to nhưng bác vẫn vui mừng khi biết tôi về thăm
     Như những lần trước tôi muốn mời bác ngay những món ăn Việt Nam nho nhỏ mà tôi mang đến , dầu  biết bác chỉ nếm qua chút ít  nhưng  người trông bác ngăn lại với lý do " Để cho bà ăn hết thức ăn sáng ! ". Tôi nhìn bữa sáng của bác  và cảm thấy nó rất vô vị và buồn chán nhưng không muốn làm trái ý người này ,tôi im lặng.
     Bác thực sự đã trở thành  một người già mù lòa và đã lẩn. Khi câu chuyện tạm ngừng thì bác lại chìm vào cơn lẩn thẩn và nói một mình.
     Lúc ấy , người trông bác tranh thủ  kể nho nhỏ với tôi những điều về Bác ,đa số là những lời không ấm áp , nào là vào Viện Dưỡng lão mới chỉ một tháng đã nằng nặc  đòi về sống trong căn nhà của mình  dầu con cái đều có gia đình sống riêng và bận rộn, nào là  khó tính ,đa nghi, lẩm cẩm, làm khó con cháu v...v.Tôi chỉ im lặng nhưng thầm nghĩ , một người già yếu gần 90 tuổi , hòan tòan không nhìn thấy ,mọi việc đều phải lần mò trong bóng tối thì những biểu hiện ấy là điều đương nhiên  ,cần phải  được thông cảm .

    Bác này vừa nói vừa nhấp từng ngụm trà mướp đắng  và mời tôi uống nhưng tôi từ chối , Lát sau, bác ta lấy tay sờ cốc nước trước mặt bác,bảo '  Nước nguội rồi " và mang đỗ, hứng  1 ly  khác từ vòi nước nóng trong bồn rửa chén mang lại. Tôi thở dài...

    Rồi người trông bác đề nghị gọi cho Quyền , báo cho anh biết có tôi về thămđể anh chạy sang nhưng tôi ngăn lại vì điều ấy  hòan tòan không cần thiết.
    Lát sau thấy bác đã có vẻ mệt tôi đưa bác vào giường nằm nghỉ, nhìn đồng hồ thấy chỉ còn  vài tiếng là đã đến giờ  phải ra bến xe cho kịp chuyến trở về Toronto  trong ngày, tôi hỏi bác có muốn tôi xoa lưng,  đấm bóp tay chân cho bác không ? Bác bảo có, vì tay chân bị nhức mỏi lắm rồi lần theo tường đi tìm chai dầu đưa cho tôi .
     Tôi  xoa bóp những bắp thịt mềm nhão , yếu đuối của bác và nghĩ , có thể đây sẽ là lần cuối cùng tôi được săn sóc bác , lòng tôi bỗng dưng  bùi ngùi .
    Chợt bác nói , thật tỉnh  táo  : " Phải chi ngày xưa Quyền cưới được con.... "
    Rồi Bác nằm im như thiu thiu ngủ, tôi nhẹ nhàng rời khỏi phòng . Đã đến lúc tôi phải về.
    Nói những lời mềm mỏng với bác Quý, tôi cảm ơn Bác ấy đã chịu khó chăm sóc Bác tôi và mong Thiên Chúa sẽ đền đáp lại công việc mang rất nhiều ý nghĩa nhân đạo này .

    Taxi đã đến chờ  ngòai sân, tôi mặc áo khóac bước ra cửa , trời mùa này đã trở lạnh , tôi nhìn căn nhà quạnh quẽ của bác để ghi vào ký ức của mình lần chót vì rất có thể, tôi chẳng còn dịp trở lại...
 Tôi cũng ghi vào ký ức mình bức ảnh bác khi còn  thiếu nữ, một Thiếu nữ Việt nam xinh đẹp mà tôi tin rằng bóng hình  đã in vào tâm tưởng của một nhạc sĩ tên tuổi dẫu cuộc đời với những biến cố đã khiến hình bóng này  trở thành một nỗi nhớ lung linh mãi cho đến lúc bạc đầu. Và tôi  sẽ thương cảm người thiếu nữ ấy vô  cùng nếu biết rằng trong từng ấy năm ,vâng lời cha , xuất giá tòng phu làm  tròn bổn phận người vợ đoan hạnh , tình cảm đầu đời với những rung động tinh khôi vẫn được ấp ủ ,trân trọng trong một góc tâm hồn.

    Trong giây phút ngắn ngủi đó , bất  chợt tôi cũng  nghĩ đến Quyền, đã từ lâu , lâu lắm rồi  tôi không gặp anh  . Nhưng chắc chắn những lần tôi về thăm mẹ anh ,chăm sóc bà với sự thương mến chân thật ,dầu chỉ trong vài giờ , anh đều biết .Và trong  sự im lặng chắc anh sẽ cảm thấy ,tôi trả lại phần nào món nợ ân tình mà anh đã dành cho tôi ngày ấy , khi tôi còn thiếu nữ...


 



Cà Na tn nguyen
<bài viết được chỉnh sửa lúc 08.03.2012 08:58:50 bởi tn nguyen >

SongHuong
  • Số bài : 400
  • Điểm: 2
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 29.10.2009
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 08.03.2012 08:29:31
0
Chúc mừng chị em Câu lạc bộ Tri âm và cả diễn đàn 8/3 vui vẻ và nhiều hạnh phúc

Nén lòng tôi với tri âm
Nén thương nhớ gởi xa xăm một người

dohop
  • Số bài : 516
  • Điểm: 8
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 21.04.2009
  • Nơi: Nam Bán Cầu
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 08.03.2012 14:02:43
0
Bí quá nên hộp spam bài cũ nha, để cám ơn các anh, các chú, nhờ các anh, các chú mới có ngày phụ nữ.

8 tháng 3

Cám ơn anh em có ngày phụ nữ
Chưa quen anh em chẳng biết mình phụ… gì!
Người gọi em “nhóc này”, kẻ “nhỏ kia”
Mẹ cũng mắng “chẳng biết ngươi trai hay gái!”

Quen anh rồi em như tái sanh lại
Má thêm hồng, mắt thêm đẹp, mi thêm dầy
Ngực thêm phồng, da thêm nõn, tiếng thêm hay
“Con gái ơi!” Ba mắng, “coi chừng hỏng!”

Không có anh, chắc em còn… cà nhỏng
Chứ đâu thành “thím nọ”, “chị kia”
“Má thằng Tèo”, “Dâu bà Tám”… nghe ngộ ghê
Nhờ có anh mà em thêm … nữ tính

Dù biết rằng gái, trai do Trời định
Em không quên công cán của… mẹ cha
Thêm công anh… nắn nót em đó mà
Nên nhắc mãi ngày tháng ba, mồng tám!

dohop 8 tháng 3 năm 2010


Ảnh Google Image

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 11:49:21
0

Trích đoạn: damotlanyeunhau

sau tết rùi níu có bị quở chắc cũng hỏng đến nỗi xui nguyên năm đâu huh anhlynh huh?? mà cũng đâu có thấy ai đốt đuốc theo cánh chim hải âu đi tìm Múi đâu hichic bùn wóa

Bớ anhlynh, anh SH, winh đa đa , winh ĐH, chị NTN, anh Tóc, SA, chị Ly, chị cả và các anh chị thân thương (chưa iu) ơiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii






Ơiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiiii

sao em hông đi lun đi hở cục múi?





http://www.box.com/s...7p4ikbuo1v1q448

Chẻ đôi nỗi nhớ

Thơ trúclan.Phổ nhạc & Trình bày dzuylynh
Album Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì . Mar2.2012

Có ai chẻ nhớ giùm tôi
Chẻ sao cho khéo thành đôi vợ chồng
Chẻ đôi nỗi nhớ mặn nồng
Thành con phụng múa, thành rồng trên mây
.
Có ai chẻ nhớ trên tay
Để hai nỗi nhớ mãi đầy chẳng vơi
Chẻ đôi nỗi nhớ mảnh đời
Mảnh rơi xuống biển, mảnh ngời thành sao
.
Mảnh rơi xuống biển hư hao
Mảnh thành sao sáng tràn vào tương tư
Có ai chẻ nhớ tờ thư
Chẻ thành khúc nhạc, ngôn từ lả lơi
.
Chẻ đôi nỗi nhớ hai người
Mỗi người một mảnh, muôn đời nhớ nhau.
Chẻ đôi tình đã nhạt màu
Se thành duyên thắm trầu cau ân tình
.
Chẻ đôi giấc mộng tương sinh
Nửa hồn ngơ ngác, nửa thinh không đời
Chẻ cho nỗi nhớ đầy vơi
Chẻ cho hờ hững mở lời ái ân

Ôm theo nỗi nhớ gian trần
Chôn vào nỗi nhớ... mộ phần thiên thu
.
Trúc Lan

 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2012 11:51:37 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 11:55:17
0



nhớ | quên
ôm nghiêng tập vở trường về
có người theo đếm tóc thề ai bay
em đừng bảo tại không hay
giả vờ không biết anh say gót hồng

bài thơ... đưa nhé nhủ lòng
tim anh ngược nhịp lòng vòng... quên trao!
trúc reo ngõ vắng lao xao
chiều đà giấu bóng hanh hao góc vườn

tại thương, ai bảo tại thương?
thương chiều lá đổ vấn vương đường về
thương em sao quá nhiêu khê?
thương anh... dệt nỗi đam mê vụng về

bởi xưa tình nhỡ đam mê
bởi nay tình vẫn nhỡ mê... thuở nào
trên trời có triệu vì sao
dưới trần triệu kẻ chênh chao tình trường

bốn năm sách vở từ chương
tường rêu ngói đỏ sân trường nhớ...quên
một thời áo trắng trinh nguyên
trách anh chẳng thệ chẳng nguyền lời thương

chừ ngăn cách một đại dương
sao còn hồi hướng vấn vương làm gì!
nhớ, quên nghiêng ngã vần thi
cung tơ đành đọan lỡ thì còn vương

rằng thương thì thật là thương
thương người Tư Mã đọan trường Tương Như
nụ thương, một cánh thảo hư
vầng trăng một nửa... tương tư mất rồi...

quên trao một chiếc ngọc bôi
quên xao xuyến phút bồi hồi chia tay
nhớ đêm thức dỗ giấc say
nhớ ngày quay quắt ngất ngây dáng kiều

tìm về chốn vắng hoang tiêu
chẻ đôi nỗi nhớ liêu xiêu một thời
chẻ đôi sợi tóc rối bời
nhúng vào nỗi nhớ trói lời huyễn thi

níu nhau chi mộng tương nghì
thu đong hạ đếm xuân thì trả vay
bồ đào dạ bồ đào say
tỳ bà ai khảy lung lay nguyệt thềm

bôn ba một cõi trầm mê
mòn chân dép cỏ đi về nhân gian
phụng hòang ngơ ngác thiên đàng
mù tăm bóng nhạn ngỡ ngàng chân mây

nhớ quên quên nhớ có hay
hay là hỏi giọt mưa bay cuối trời ...

duylinh Mar 3.2012
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2012 12:11:25 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 11:58:44
0



http://www.box.com/shared/mibtsldrczeul3ketic6


Kính dâng lên Mẹ ViệtNam giọt nước mắt cho Tổ Quốc , Quê Hương
và cho đôi mắt một người ở xa .

thunglũnghòanghoa.cuối đông 2012

dzuylynh
<bài viết được chỉnh sửa lúc 09.03.2012 12:23:45 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:01:22
0


http://www.box.com/s...az7r16pbe9vf6jv

TIẾP BƯỚC
thơ Cao Nguyên . phổ nhạc & trình bày Dzuylynh
album Việt Nam Minh Châu Trời Đông . Mar 6.2012


Tráng khúc thơ treo đầu súng
chân còn vững nhịp Quân Hành
trăng soi hồng bia đá dựng
sao ai nói núi sông buồn!

Khắp nơi vang lời hy vọng
Việt Nam Tổ Quốc Vinh Quang
Tuổi Trẻ vươn vai Phù Đổng
sao ai nói mộng xưa tàn!

Từ trong màn đêm bi hận
vùng lên theo nắng Xuân về
điệu kèn giục theo trống trận
cùng đi nối mạch tình quê

Tâm thơ gởi người Bạn Trẻ
mừng mai vào lễ xuất quân
nối bước tiền nhân ngạo nghễ
lên đường bảo vệ Quê Hương!

Cao Nguyên

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:03:04
0


http://www.box.com/shared/39hhve7j7nccqymcem8k

đêm giăng võng
hai đầu nguyệt khuyết
nghe bão giông thê thiết thét gào
thuyền
trôi lạc bến trăng sao
nhân ngư trỗi khúc tiêu dao diễm huyền

lời ru
kể khải huyền tích truyện
có một miền đất hứa thần tiên
tránh xa cuộc thế đảo điên
em
ra biển rộng
lên triền tử sinh

sao mai thức bình minh đưa tiễn
mẹ
lệ rơi
trong tiếng khóc thầm
tiễn con...
đọng tiếng triều âm
vỗ về sóng biếc
rì rầm biển đêm

còn đâu âu yếm lời ru trẻ
đêm nguyện đường khấn khẽ Chúa ơi !
liều thân vượt biển ra khơi
chừng như một cuộc dạo chơi xuống đời

sấm vang
gió giật
tơi bời tiễn
ván nát
thuyền tan
biển thét gào

cánh diều chưa kịp bay cao
đứt dây giữa cồng trời, sao đọan đành !
mồ mẹ đã kịp vừa xanh cỏ
nào hay
con vừa bỏ kiếp người
vùi thân giữa đáy biển khơi
long cung thủy táng hóa đời nhân ngư...

...đêm giăng võng
hai đầu nguyệt khuyết
nghe
bão giông thê thiết thét gào
hồn em ngự ở trên cao
hay hồn thiên sứ
muốn trao nỗi niềm
đêm,
anh thắp một que diêm nhỏ
thay hải đăng khơi tỏ trùng dương
sóng êm
nhã nhạc thiên đường
biển đưa thiên sứ yêu thương đến người
tháng tư
biển động
mờ hư ảnh
anh thấy em về hiện ánh sao
xin hồn em ở trên cao
hóa thành thánh nữ tiêu dao cõi trời
đêm
nghe sóng vỗ bời bời
biển
thay thiên sứ
hát lời ru
em


Half Moon Bay Mar 6.2012.dzuylynh

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:04:43
0


http://www.box.com/shared/j9ga6vq0g0d16j5dbon4

liên khúc hắt hiu.buồn.nhớ

thơ trúclan . phổ nhạc & trình bày dzuylynh
album " Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì " Mar7.2012

HẮT HIU
Biển xanh nắng trải lưng đồi
Trời giăng mây trắng ta ngồi nhớ ai
Hắt hiu một tiếng thở dài
Sầu rơi kín cả đôi vai muộn màng
Bỗng dưng đứt sợi tơ vàng
Một chùm hoa thắm rụng sang nhà người
Cuộc tình ta rách tả tơi
Giơ tay lượm cánh hoa rơi vá vào
Buồn giăng tím cả trăng sao
Đời ta là giấc chiêm bao một mình
Trăng lên lấp lánh đầu đình
Soi tình, tình vỡ, nhìn tình, tình đau
Buồn rơi những hạt mưa mau
Thành hoa Lan trắng... bay vào tình yêu
Tơ vàng mấy sợi đăm chiêu
Buộc vào thương nhớ từng chiều ngẩn ngơ
BUỒN
Buồn ơi có tự bao giờ
Mà trong giông bão giả vờ cười vui
Câu thơ tình cũ chôn vùi
Ngày cười... đêm lại ngậm ngùi nở hoa
Vườn sau hái nụ hoa cà
Kết vào lọn tóc đuôi gà tặng anh
Mà sao mắt lệ long lanh
Thấy trong cát bụi sầu thanh tân chờ
Đầu đình trúc đứng lẳng lơ
Trúc xinh mà vẫn bơ vơ một mình
Nắng xuân se sợi tơ tình
Sao không trói buộc vào mình với ta
Mai này cách trở đường xa
Tơ hồng có rối vẫn là của nhau
Đàn gieo mộ khúc thương đau
Yêu nhau rồi sẽ xa nhau mà buồn...
NHỚ
Nhớ thương chi để sầu tuôn
Sang sông để lại nụ hôn cuối mùa
Người về có nhớ sông xưa .?
Ta về hiu hắt cơn mưa ngập lòng
Buồn rơi nước mắt bên song
Thuyền ai lờ lững theo giòng sông xanh
Mảnh tình sao dễ mong manh
Bọt bèo sao chẳng nở xanh lời nguyền
Bể dâu nào có vẹn tuyền
Nên lòng ta mãi ưu phiền bấy lâu
Có ai thấu hiểu tình sầu ?
Thì ta một bóng canh thâu đợi chờ...
.
Trúc Lan


vịnh nửavầngtrăng .dzuylynh
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.03.2012 07:03:24 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:09:09
0

<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.03.2012 07:02:23 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:15:18
0


http://www.box.com/s...1tu1hq1zddecbzz


Giọt cà phê anh nhớ

thơ dohop. phổnhạc & trình bày dzuylynh
album Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì . Feb28.2012


Giọt cà phê cho anh

Hôm xưa trời đổ lạnh

Giọt đậm màu mây tóc

Hay mắt huyền long lanh?

Giọt cà phê hương em

Mặn mà như nước mắt

Giọt ngọt buồn thấm tim

Dư âm tình chẳng cạn

Giọt mặn ngọt đầu tiên

Linh hồn anh thổn thức

Vị buồn ngon theo anh

Ru anh khắp mọi miền

Giọt cà phê tha hương

Thay em, giọt vấn vương

Giọt ngọt thơm môi em

Theo bước anh đến trường

Giọt cà phê kỷ niệm

Vị mặn anh chẳng quên

Hương đời hay duyên mộng

Giọt cà phê anh nhớ

Hay là giọt môi em?

Giọt cà phê anh nhớ

hay là giọt mắt em?


dohop – Nam Bán Cầu 27.2.2012

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:21:43
0


http://www.box.com/shared/czol31elpka0h7dg863a

Thì xưa... chốn đợi chờ!
thơ dohop. phổnhạc&trìnhbày dzuylynh_Feb29.2012
album Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì

Em gỡ giùm anh sợi tóc mây
Đan vào tâm trí thuở thơ ngây
Sợi nâu óng ánh xuyên tim nhỏ
Mực tím yêu thương đã vơi đầy

Em gỡ giùm anh giấc mơ ngon
Bờ vai gầy nhỏ ngọt môi son
Có thời gian vỡ nhưng lành lại
Có yêu thương, tiếc nhớ, mỏi mòn

Em gỡ giùm anh nỗi an nhiên
Thấp thoảng phiền ưu những đêm dài
Dĩ vãng xa mờ hòai đọng mãi
Nỗi buồn tuổi dại vẫn triền miên

Em gỡ giùm anh ánh mắt xưa
Lấp lánh nhìn anh đến bao giờ?
Tình trao chưa hết nên dang dở
Ngấn lệ đầy vơi mãi mong chờ…

Em gỡ giùm anh trái tim son
Thôi buồn vương ngấn nhớ mỏi mòn
Em là cát bụi vô tâm trí
Dẫu biết... thì xưa chốn đợi chờ...

dohop 14/6/07
<bài viết được chỉnh sửa lúc 11.03.2012 07:06:05 bởi dzuylynh >

dzuylynh
  • Số bài : 1290
  • Điểm: 26
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 24.05.2010
  • Nơi: Vịnh Nửa Vầng Trăng
RE: Câu Lạc Bộ TRI ÂM - 09.03.2012 12:26:57
0



http://www.box.com/shared/v0teozz2j0nmhdi4ssvz
còn nhớ hay quên
Sáng tác & Trình bày: Dzuylynh
Album Trao Nhau Một Thuở Xuân Thì .Feb29.2012
( thương tặng áo trắng trưng vương )

còn nhớ không em? áo trắng thơ ngây

vòng tay học trò, lưu bút ngày xanh

phượng đỏ sân trường, những dòng mực tým

bụi phấn bảng đen, tiếng trống tan trường

bầy con gái lao xao tiếng guốc, nhịp gõ âm vui phố xá ồn ào

ta hẹn nhau cà phê góc nhỏ, ly nước chanh đường ngọt lịm môi em

còn nhớ không em? từ xa thị thành, xa vòm lá me bay

vàng tay khói thuốc, những bước di hành và từng đêm không ngủ

anh nhớ em, như chưa bao giờ nhớ thế...

ngày đêm miệt mài trấn ải địa đầu, những địa danh xa lạ vừa mới quen tên

đã thêm một lần đi

từ dạo chia ly chưa có ngày gặp lại

em bây giờ... em bây giờ ở đâu?

hôm nay trở lại bên gác chuông giáo đường, nghe bài thánh ca chợt nhớ em

quắt quay quắt quay

đường phố vẫn xôn xao, người thương ở nơi nào...

còn nhớ hay quên?

còn nhớ hay quên? còn nhớ hay quên?

Saigon ơi ! Saigon ơi ! nhớ mấy cho vừa, nhớ những mùa xuân xưa

những buổi chợ trưa, đường trơn nho nhỏ, lược chải trâm cài, mái tóc dài ngang vai

ánh mắt kiêu sa, người Trưng Vuơng trang đài, bờ vai thục nữ đã xa ... xa mất rồi

chỉ còn lại mình anh và kỉ niệm theo dòng sông đã trôi ...

xa

còn nhớ không em? nhớ vòng tay buông lơi

áo trắng thơ ngây, nụ hôn vụng dại...

theo biển rộng sông dài từ một dạo tháng tư

em thành người biệt xứ. anh giả từ đất mẹ, xa tổ quốc yêu thương

nương thân nơi đất lạ quê người. đếm từng ngày sợi tóc bạc làm quên

còn nhớ không em ? còn nhớ không em? còn nhớ hay quên....


Dzuylynh vịnh nửa vầng trăng Feb29.2012

Thay đổi trang: << < 131415 > >> | Trang 15 của 36 trang, bài viết từ 421 đến 450 trên tổng số 1076 bài trong đề mục