Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 30 bài trong đề mục
HanSiNguyen 22.05.2008 09:42:36 (permalink)
0
==================
HSN-VN Thư Quán
==================

DẤU MÊ SI
LỤC NGÔN THỂ - LƯỠNG ĐẦU XÀ
LIÊN HOÀN KHÚC
BÈO DẠT MÂY TRÔI
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
TIẾNG RU
THƠ MÙA VU LAN
GIÁNG SINH
TÀN ĐÔNG & CHÀO XUÂN
HSN & Friend : CỎ YÊU ƠI
HSN & Friends : BẬU ƠI

oOo

THI PHÁP
Tuyển Tập BLUE and JAZZ
ĐIỆU BUỒN AN TÂY
HSN & FRIENDS
DÂN CA HSN
THÁNH CA HSN

oOo

Trang bạn

NGÀY ẤY (Nguyễn Khánh Linh)
HƯƠNG BƯỞI (Trần Hương Giang)

======================================
XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA
TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA
===========================
 
HÀN SĨ NGUYÊN
 
 
TRUYỆN THƠ
 
THỪA TƯỚNG
ỨNG HẦU
PHẠM THƯ
 

 
BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH
-2002-
 

 

Trích :

Trong Sử Ký, ở đoạn kết bài nói về Phạm Thư – Thái Trạch, Thái sử công Tư Mã Thiên đã ngậm ngùi mà chép lại rằng :
 
Phạm Thư, Thái Trạch người đời đều xếp vào hàng biện sĩ. Có những biện sĩ đi du thuyết chư hầu đến bạc đầu mà vẫn không gặp cơ hội, nguyên do không phải tại mưu kế của họ dở, mà chỉ vì họ không có đủ những điều kiện thuận tiện cần thiết để thành công
Đến như trường hợp của hai ông, đang khi tha hương lữ thứ ở Tần mà nối tiếp nhau làm nên khanh tướng, lập được công danh với thiên hạ, thì đó là nhờ thời thế có khác xưa vậy.Nhưng kẻ sĩ cũng có khi còn nhờ may mắn nữa, kể làm sao xiết những bậc hiền tài giỏi giang chẳng kém hai ông, song chỉ vì không có cơ duyên mà đành thất chí. Tuy nhiên, nếu như hai ông không gặp nhiều nguy khốn thì lấy gì kích thích hai ông.
 

Được lọt vào mắt xanh của Thái sử công Tư Mã Thiên, được đàng hoàng ghi chép vào Sử Ký, chỉ nội một điều ấy thôi cũng đủ cho thấy Phạm Thư quả thật phải là một nhân tài xuất chúng thời Chiến quốc vậy.
Tuy nhiên, cách đánh giá của Tư Mã Thiên về Phạm Thư - theo thiển ý - có đôi  điều cần cân nhắc lại :
 
-Xếp Phạm Thư ngang với Thái Trạch, chung trong nhóm biện sĩ có phải là vội vàng ? Thái Trạch thì đúng là biện sĩ thật. Nhưng Phạm Thư thì còn hơn thế nhiều. Chỉ cần qua Sử
Ký mà thôi, cũng có thể thấy được ông không chỉ là một biện sĩ du thuyết thành công nhờ vào tài năng ăn nói, ứng đáp; mà còn là một lương tướng, một chính khách tài ba, một nhà lãnh đạo sáng suốt, một mưu thần thao lược, một người hoạch định chính xác, và nói cho cùng, là một kẻ sĩ dị kỳ thời Đông Chu liệt quốc vậy.
-Quan điểm cho rằng ông thành công nhờ gặp cơ duyên có nên xem xét lại hay không ? Sang Tần chờ đợi hơn năm, có gặp cơ may nào đâu ? Tự mình viết bức thư  xin yết kiến Tần vương mở đầu cho cả một sự nghiệp phải chăng là may mắn ?
 
Tóm lại, người đời sau có mấy ai biết đến tên tuổi của Phạm Thư ? Phỏng có được bao nhiêu người hiểu biết chính xác về ông ? Vị trí đúng của ông trong lịch sử lẽ ra phải là vị trí của một “lương tướng”. Nếu xếp ông vào hàng biện sĩ, có thể nói là thiệt thòi cho ông lắm vậy.
Phải chăng đó là một trong số những nhìn nhận chưa hợp lẽ công bằng của hậu thế ???
 

HÀN SĨ NGUYÊN
Tháng 7 năm 2000
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.04.2009 07:14:43 bởi HanSiNguyen >
#1
    HanSiNguyen 22.05.2008 10:12:57 (permalink)
    0
    LỜI NÓI ĐẦU
     
    THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯlà một bộ truyện thơ thể Lục bát dài 3380 câu, lúc đầu có tên là “Ứng hầu Phạm Thư”.

    -Bộ truyện này là một thành phần trong tủ sách TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA của Hàn Sĩ Nguyên, những khái niệm mà  nhiều người thời nay cho rằng đã cổ hủ, lạc hậu rồi. Nhưng thật ra thì không phải thế. Trong thời buổi đồng tiền trở thành biểu tượng của thành công, kim chỉ nam soi đường, mục đích phải đạt, cứu cánh tìm kiếm, thậm chí trở thành lý tưởng sống, triết lý sống của nhiều người, chính sự “Tranh danh đoạt lợi” đã dẫn tới muôn vàn nhiễu nhương trong xã hội, đưa đẩy biết bao nhiêu số phận con người phải sa vào hố sâu tội lỗi, vực thẳm tội ác (ở khắp mọi nơi) thì những khái niệm về Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.



    -Bộ truyện này ghi lại những chuyện xưa (CỐ SỰ) được chắt lọc TINH HOA từ thời Xuân thu, Chiến quốc, cách nay hơn 2000 năm. Chuyện cũ thì cũ thật, nhưng ôn việc thời xưa để hiểu rõ việc thời nay (ÔN CỐ TRI TÂN), là một việc làm thiết nghĩ không thừa chút nào cả


    -Bộ truyện này được thể hiện dưới dạng thơ Lục bát là một thể thơ có tính dân tộc, mang bản sắc thuần tuý Việt Nam, với quá trình hình thành gần 5000 năm. Tuy “già nua” như thế, nhưng có học giả đã từng phát biểu : “LỤC BÁT CÒN, NƯỚC TA CÒN”, câu nói ngắn gọn ấy đủ để nói lên tầm quan trọng của thơ Lục bát vậy. Giá trị vĩnh cửu của thơ Lục bát đã từng được chứng minh qua Truyện Kiều, cũng như qua tập hợp kho tàng ca dao đầy tinh thần nhân bản Việt Nam.
     
    Từ “Ứng hầu Phạm Thư” lúc ban đầu, cho đến “Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư” hiện nay, người viết đã mất hơn hai năm trường hiệu đính và chỉnh lý, trong tinh thần lao động cật lực và nghiêm túc.
    Hy vọng rằng với cách làm việc tỉ mỉ và thận trọng như thế, bộ truyện này sẽ phần nào là bổ ích và đem lại hứng thú cho người đọc, trong cũng như ngoài nước, bây giờ cũng như sau này.
    Các ý kiến trao đổi, đóng góp, nhận xét v.v ... xin gửi về địa chỉ e-mail :
    hsn2k3@yahoo.com  HSN xin chân thành lắng nghe.
     
    HSN trân trọng
     
     
     
     
     
    TỰ NGÔN
    Lời tựa cho bản chính thức đã hiệu đính năm 2002
     
    oOo
     
    Thuở còn thơ ấu, tôi may mắn có một niềm hạnh phúc lớn lao là được bà nội (mù lòa), mẹ và cả chị tôi nữa, ru ngủ bằng truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, bằng cả một kho ca dao truyền khẩu Việt Nam đầy ắp tình người.



    Sau này khi lớn lên, khi va chạm, lăn lộn với đời, khi phải nếm trải những cay đắng xót xa của tình đời đen bạc, những lời ru thời thơ ấu ấy vẫn lắng đọng mãi trong tôi, giúp tôi vơi đi nỗi thống khổ, sự cô đơn, động viên tôi kiên trì đi tiếp, đi mãi trên đường ngay lối thẳng
    .
    Những lời thơ sang sảng của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị chẳng khác nào kim chỉ nam soi đường. Những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa của Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Thủ Khoa Huân, Hồ Huân Nghiệp, Trương Định, v.v… vẫn còn đó chói ngời rạng rỡ trong lịch sử Việt Nam.


    Nhìn sang lịch sử Trung Quốc, những tấm gương anh hùng cái thế, đạo nghĩa ngất trời của Nhạc Phi, Văn Thiên Tường thời Nam Tống, Tiên Trẩn thời Xuân Thu, Phạm Thư thời Chiến Quốc và nhiều người khác nữa, lúc nào cũng cháy bỏng trong tôi.

    Hận là tài mình kém cỏi, không phát tiết ra thành thơ được.


    Mẹ tôi nay đã già rồi. Bây giờ đến lượt bà chỉ thích nghe đọc thơ. Đọc hết thơ cổ cho bà nghe, cạn nguồn rồi, chẳng còn biết làm sao, thôi thì chẳng kể sức mình bất khả, chẳng nệ thơ mình vụng về, mộc mạc, chân chất, đời thường, tôi đành mạo muội vừa viết vừa đọc cho bà nghe … Mỗi ngày non một trăm câu. Có khi cao hứng được hơn hai trăm câu. Quay đi quay lại hai mươi bảy ngày thấm thoắt, thế là hình thành nên pho truyện thơ ỨNG HẦU PHẠM THƯ 3380 câu lục bát.


    Tiếp theo đó là cả một quá trình chỉnh lý và hiệu đính dài đăng đẳng suốt hai năm trường, lần dò từng câu, chỉnh sửa từng chữ, để cuối cùng có được THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ như hiện nay. Nhưng đây đó chắc hẳn vẫn không tránh khỏi ít nhiều thiếu sót, khiếm khuyết.


    Với mọi người, có thể đây chỉ là một pho truyện bình thường, hoặc tầm thường thôi, thậm chí còn có thể bị quy là “cổ hủ, lạc hậu, hay lỗi thời” nữa cũng không chừng. Nhưng với riêng tôi, mãi mãi tập thơ này đã trở thành một kỷ niệm không thể nào quên.


    Trân trọng cám ơn các thi hữu đã hết lòng động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi hoàn tất việc hình thành tập thơ này.
    Rất tiếc là trong lần ra mắt đầu tiên, vì muốn cho khuôn khổ sách gọn nhẹ, tôi đã không thể cho in kèm những trang chú giải về nhân danh, địa danh, điển tích và bình chú của bạn bè, thân hữu xa gần. Hy vọng rằng trong những lần xuất bản kế tiếp, tôi sẽ có thể khắc phục được các thiếu sót vừa nêu.


    Tôi xin mượn 4 câu thơ cuối truyện Phạm Thư để kết thúc những lời TỰ NGÔN này :
     
    Chuyện xưa nhân đọc mà chơi
    Diễn thành thơ, cốt giúp vui mẹ già
     Người sau nếu có xem qua
    Không chê thơ vụng - Ấy là tri ân.
     
    Không chê thơ vụng, ấy là tôi đã tri ân nhiều lắm rồi vậy

    Tháng 7 năm 2002
    Sài Gòn
    HÀN SĨ NGUYÊN

    <bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2008 10:25:51 bởi HanSiNguyen >
    #2
      HanSiNguyen 22.05.2008 10:20:09 (permalink)
      0
      GIỚI THIỆU
      NHÂN VẬT PHẠM THƯ
      TRONG CỔ SỬ TRUNG QUỐC
       


       
      Phạm Thư là một nhân vật có thật cuối thời Chiến quốc, xuất thân hàn vi ở nước Ngụy, một trong ba nước Tam Tấn (Triệu, Hàn, Ngụy), trải qua bao gian lao cực khổ sau làm quan đến mức tột đỉnh : thừa tướng nước Tần, nắm quyền sinh sát ở một cường quốc có thế và lực mạnh nhất thời hậu kỳ Chiến quốc, đất phong vạn dặm, tước là Ứng hầu. Phạm Thư chính là một trong số những quan thừa tướng nổi tiếng, có nhiều đóng góp xuất sắc cho nước Tần (bao gồm Bá Lý Hề, Kiển Thúc, Thương Ưởng, Phạm Thư, Lã Bất Vi, Lý Tư…). Ông đã góp phần xây dựng một nước Tần, vốn dĩ bị coi là man di mọi rợ ở phía Tây Trung Quốc, trở thành một quốc gia hùng mạnh, tạo tiền đề vững chắc cho Tần Thủy hoàng gồm thâu lục quốc sau này.
       
      Sử Ký Tư Mã Thiên – một pho chính sử đồ sộ và có uy tín thời Tây Hán – đã ghi chép sơ lược nhưng khá đầy đủ, rõ ràng về nhân vật này. Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa cũng không bỏ sót. Và còn nhiều thư tịch cổ khác như Chiến quốc sách, Cổ học tinh hoa, Lã thị Xuân thu v. v… đó đây đều có ít nhiều những dòng đề cập đến Phạm Thư.
      Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Phạm Thư có tên gọi là Phạm Tuy, cũng được gọi là Phạm Chuy, tự là Phạm Thúc,
       
      … người nước Ngụy. Nhà nghèo…, khởi đầu thờ quan trung đại phu Tu Cổ. Tu Cổ vì Ngụy Chiêu vương mà đi sứ sang Tề, Phạm Thư đi theo….
      Tề Tương vương biết Thư có tài mới sai người đem cho vàng lụa. Thư từ tạ không dám nhận. Tu Cổ biết chuyện giận lắm …về nước… đem việc trình lên quan tướng quốc nước Ngụy tên gọi là Ngụy Tề.  Ngụy Tề cả giận, …. sai đánh gãy cả xương sườn, gãy cả răng. Thư giả chết … , xác được bó chiếu quẳng vào cầu tiêu, cho quan khách say rượu tiểu tiện bừa vào, cốt làm nhục Phạm Thư để răn đe kẻ khác…..
      Người coi nhà cầu xin phép đem cái thây ma bó chiếu ra đồng vứt đi. Đang lúc say rượu, Ngụy Tề vội vàng cho phép. Thế là Phạm Thư ra thoát. Một người nước Ngụy tên là Trịnh An Bình hay tin ấy bèn đem Thư đi trốn, ở chui, ở rúc, đổi tên là Trương Lộc...."

      Sau đó, nhân dịp yết giả Vương Kê nước Tần đi sứ sang Ngụy, Phạm Thư cùng với Trịnh An Bình theo Vương Kê sang Tần, tạm làm tân khách hơn một năm trời, chờ đợi mỏi mòn cũng vẫn không có cơ hội nào yết kiến Tần Chiêu Tương vương……..
       
      Sau nhân dịp thừa tướng Nhương hầu Ngụy Nhiễm nước Tần chuẩn bị đánh Tề, Phạm Thư mới dâng thư lên Tần vương xin vào ra mắt. Bức thư này xưa nay vẫn được đánh giá như một áng cổ văn xuất sắc, có sức mạnh lay động lòng người. Kết quả là Tần vương cho kiến giá. Kể từ sau buổi hội ngộ ấy, Tần vương xem Phạm Thư như kẻ bề tôi thân tín, đối đãi như bậc thầy, bàn gì cũng nghe, kế gì cũng theo.
       
      Chỉ trong 3 năm ngắn ngủi, Phạm Thư hoàn thành việc củng cố quyền chính nước Tần, dẹp yên nghịch đảng, được phong làm thừa tướng, ở ngôi Ứng hầu, đất phong vạn dặm ở Ứng thành. Trong mười hai năm tiếp đó, Phạm Thư đề ra chính sách “Tàm thực” (tằm ăn dâu), chủ trương thân nước xa (Yên, Tề, Sở), đánh nước gần (Ngụy, Hàn, Triệu). Mỗi lần xuất quân, là mỗi lần lấn chiếm đất đai. Và đặc biệt là  đất chiếm đến đâu, bố trí dân định canh, định cư đến đấy… khiến hình thành nên thế “địch gầy ta béo”.

       
      Với chiến lược xuất sắc, phù hợp với tình thế bảy nước lúc bấy giờ của Phạm Thư, cộng thêm tài điều binh khiển tướng như thần của Võ An quân Bạch Khởi – một danh tướng xuất sắc bậc nhất thời Xuân thu Chiến quốc, quân Tần thắng như chẻ tre, mà tiêu biểu nhất là trận quyết chiến chiến lược ở Trường Bình, nơi đó 30 vạn quân Tần của Bạch Khởi đã bao vây, cô lập, tiêu diệt, và bức hàng hơn 45 vạn liên quân Hàn Triệu. Một trận thắng không chỉ dũng mãnh, oai hùng, oanh liệt, qui mô lớn nhất thời Chiến quốc mà còn tiêu biểu cho cả mưu cơ xuất chúng, hoạch định thần kỳ, qua một loạt kỳ mưu vô tiền khoáng hậu như : Liên hoàn kế, Khổ nhục kế, Phản gián, Nghi binh, cũng như kỳ trận Thập diện mai phục, dồn nguyên soái nước Triệu là Triệu Quát (con trai danh tướng Mã Phục quân Triệu Xa) lâm vào đất chết.
       
      Sau trận Trường Bình, uy thế nước Tần lên đến tột đỉnh, tưởng chừng như chỉ cất tay một cái là có thể bắt Triệu quy phục, cất tay cái nữa là có thể gồm thâu thiên hạ quy về một mối. Thế nhưng việc đời không phải dễ dàng như thế, liên tiếp nhiều sự cố quan trọng xảy ra : Bạch Khởi tiêu diệt 40 vạn hàng binh nước Triệu, khiến cho cả nước Triệu căm phẫn, thà chết cũng quyết chống lại, không chịu theo Tần. Rồi lục quốc liên thông giúp nhau chống Tần. Tần vương nghi kỵ giết Bạch Khởi. Trịnh An Bình thua trận dưới tay tướng Ngụy là Tín Lăng quân. Rồi Phạm Thư cáo quan. Thái Trạch thay chân làm thừa tướng. Chưa trọn 3 năm, Tần Chiêu Tương vương băng hà. Tình thế thiên hạ tiếp tục chia năm xẻ bảy thêm nhiều năm nữa. Cuối cùng phải đến Tần Thuỷ hoàng mới hoàn thành việc nhất thống thiên hạ.
       
      Trong tình thế loạn lạc liên miên ấy, một con người xuất thân hàn vi, không có thế lực riêng tư nào ủng hộ, chỉ trông cậy hoàn toàn vào tài năng cá nhân như Phạm Thư trước sau đã có thể nắm gọn quyền chính nước Tần trong mười lăm năm (Từ năm thứ 36 đến năm thứ 51 đời Tần Chiêu Tương vương). Mười lăm năm chỉ dưới một người và trên muôn người. Thật là một kỳ tích dị thường, thế gian xưa nay hiếm !
       
      Về mặt con người, Sử Ký Tư Mã Thiên tuy ngắn gọn, súc tích, cũng đủ cho thấy một Phạm Thư lắm mưu nhiều trí, nhìn xa trông rộng, ơn đền oán trả rạch ròi, phân minh. Và cuối cùng, ở độ tuổi năm mươi, Phạm Thư đã biết thức thời cáo quan quy ẩn, tránh được cái vạ sát thân mà những người tiền nhiệm trước kia, cũng như kế nhiệm sau này đều không tránh khỏi (Thương Ưởng bị hành hình phân thây giữa chợ, Thái Trạch phải chạy trốn sang nước khác, Lã Bất Vi cay đắng nhận lấy bầu rượu độc …).
      Có đối chiếu như thế mới thấy được sự cao minh, sáng suốt của Phạm Thư vậy.
       
      Trong Sử Ký, ở đoạn kết bài nói về Phạm Thư – Thái Trạch, Thái sử công Tư Mã Thiên đã ngậm ngùi mà chép lại rằng :
       
      Phạm Thư, Thái Trạch người đời đều xếp vào hàng biện sĩ. Có những biện sĩ đi du thuyết chư hầu đến bạc đầu mà vẫn không gặp cơ hội, nguyên do không phải tại mưu kế của họ dở, mà chỉ vì họ không có đủ những điều kiện thuận tiện cần thiết để thành công
      Đến như trường hợp của hai ông, đang khi tha hương lữ thứ ở Tần mà nối tiếp nhau làm nên khanh tướng, lập được công danh với thiên hạ, thì đó là nhờ thời thế có khác xưa vậy.Nhưng kẻ sĩ cũng có khi còn nhờ may mắn nữa, kể làm sao xiết những bậc hiền tài giỏi giang chẳng kém hai ông, song chỉ vì không có cơ duyên mà đành thất chí. Tuy nhiên, nếu như hai ông không gặp nhiều nguy khốn thì lấy gì kích thích hai ông.
       
      Được lọt vào mắt xanh của Thái sử công Tư Mã Thiên, được đàng hoàng ghi chép vào Sử Ký, chỉ nội một điều ấy thôi cũng đủ cho thấy Phạm Thư quả thật phải là một nhân tài xuất chúng thời Chiến quốc vậy.
      Tuy nhiên, cách đánh giá của Tư Mã Thiên về Phạm Thư - theo thiển ý - có đôi  điều cần cân nhắc lại :
       
      -Xếp Phạm Thư ngang với Thái Trạch, chung trong nhóm biện sĩ có phải là vội vàng ? Thái Trạch thì đúng là biện sĩ thật. Nhưng Phạm Thư thì còn hơn thế nhiều. Chỉ cần qua Sử
      Ký mà thôi, cũng có thể thấy được ông không chỉ là một biện sĩ du thuyết thành công nhờ vào tài năng ăn nói, ứng đáp; mà còn là một lương tướng, một chính khách tài ba, một nhà lãnh đạo sáng suốt, một mưu thần thao lược, một người hoạch định chính xác, và nói cho cùng, là một kẻ sĩ dị kỳ thời Đông Chu liệt quốc vậy.
      -Quan điểm cho rằng ông thành công nhờ gặp cơ duyên có nên xem xét lại hay không ? Sang Tần chờ đợi hơn năm, có gặp cơ may nào đâu ? Tự mình viết bức thư  xin yết kiến Tần vương mở đầu cho cả một sự nghiệp phải chăng là may mắn ?
       
      Tóm lại, người đời sau có mấy ai biết đến tên tuổi của Phạm Thư ? Phỏng có được bao nhiêu người hiểu biết chính xác về ông ? Vị trí đúng của ông trong lịch sử lẽ ra phải là vị trí của một “lương tướng”. Nếu xếp ông vào hàng biện sĩ, có thể nói là thiệt thòi cho ông lắm vậy.
      Phải chăng đó là một trong số những nhìn nhận chưa hợp lẽ công bằng của hậu thế ???
       
      HÀN SĨ NGUYÊN
      Tháng 7 năm 2000
      <bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2008 09:18:50 bởi HanSiNguyen >
      #3
        HanSiNguyen 24.05.2008 08:47:57 (permalink)
        0
        PHẠM THƯ QUA NGÒI BÚT HÀN SĨ NGUYÊN
        -Bài của nhà văn VŨ HẠNH-
         

         
        Trong cổ sử Trung Quốc, Phạm Thư chưa hẳn đã là một con người hoàn thiện, cũng tích oán cưu hờn, cũng ơn đền oán trả, cũng phạm nhiều sai lầm trong cuộc sống riêng tư cá nhân, cũng như trong hoạt động chính trị của nước Tần, cũng lo toan cho địa vị cá nhân, cũng tham luyến quyền hành, cũng đe nẹt hàn sĩ. Những điều ấy được ghi chép tỏ tường trong Sử Ký Tư Mã Thiên, phần Liệt truyện, đoạn nói về các biện sĩ “Phạm Thư -Thái Trạch”.
         
        Dẫn xuất từ nguồn tư liệu cổ ít ỏi ấy, nhà giáo kiêm nhà thơ Việt Nam Hàn Sĩ Nguyên qua tác phẩm ỨNG HẦU PHẠM THƯ, có thể nói đã viết lại, đã vẽ lại, đã hư cấu, hình thành nên một Phạm Thư mới, khiến cho một thừa tuớng Phạm Thư thời xa xưa, vốn còn xa lạ với công chúng, xuất hiện trước mắt chúng ta như một nhân vật phi thường. Đó là một con người bình dị, có trí năng thông tuệ tuyệt vời, đã quán triệt được lẽ biện chứng trong cuộc sống của thời tao loạn, để mà hướng sự việc tiếp diễn theo mức tối ưu, đó cũng còn là một con người đạo đức vô song với niềm hiếu thảo,với nghĩa thủy chung, cư xử ân oán phân minh, nhân nghĩa vẹn toàn. Ở thời điểm tột đỉnh vinh quang, con người ấy vẫn không ham địa vị, không mê nữ sắc, không hề trở mặt quay lưng với người cùng khổ, với kẻ vô danh ngày xưa có ơn cứu mạng cho mình; để rồi đem tấm lòng biết ơn đáp đền trong muôn một, và cũng từ con người rất khốn khổ ấy mà Phạm Thư đã nghe ra, đã hiểu thấu tiếng nói của lương tri. Chu toàn đạo nghĩa, trọn vẹn ân tình, con người ấy còn biết tiến, biết thoái, quả là một sự kiện nhân sinh hiếm thấy xưa nay, đồng thời đó còn là mẫu mực của một đạo lý sống có thể truyền lưu cho đến muôn đời.
        Phạm Thư là sản phẩm của một thời tao loạn, nhưng chính qua thời tao loạn ấy mà đức và tài của nhân vật này bộc lộ hết được tinh hoa. Có lẽ càng suy gẫm thêm, mỗi người trong chúng ta còn có thể tìm thấy được qua nhân vật này những điều kỳ thú cho một lẽ sống nhiệm mầu.
         
        Đem những người xưa tiêu biểu ra viết thành thơ lục bát hơn ba ngàn câu, để mà hoằng dương đạo nghĩa, phổ biến nhân luân, HÀN SĨ NGUYÊN đã lặng lẽ làm một công việc ít thấy giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy cảnh bon chen trục lợi, đầy những mưu toan thực dụng, đầy những tính toán đảo điên. Nhưng nét kỳ diệu của cuộc đời này vẫn tồn tại đó, qua tập truyện thơ Ứng Hầu Phạm Thư : Một vị thừa tướng từ thời cổ sử xa xôi mờ mịt của nước Trung Hoa giữa buổi loạn ly, đã trở lại như một con người hiện thực giữa cõi đời này .
         
        Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả tập truyện thơ Ứng Hầu Phạm Thư, một sáng tác mà nhà giáo kiêm nhà thơ Việt Nam - ông HÀN SĨ NGUYÊN – đã đem những lời thơ hoa gấm dệt nên một áng diễn ca đầy ắp tình người.
         
        Nhà văn Vũ Hạnh
        12/2000 

         

         
        ============================
        DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
        ============================
         
        1-Sử ký Tư Mã Thiên - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
        2-Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa - Bản dịch của Nguyễn Đỗ Mục
        3-Cổ học tinh hoa - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
        4-Chiến quốc sách - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
        5-Lã thị Xuân Thu
        6-Binh pháp Tôn Vũ tử
         
        ==========================
         
        NỘI DUNG
         
        “Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư” gồm có 30 phân đoạn :
         
        1-Phạm Thư thuở hàn vi
        2-Tu Cổ đi sứ nước Tề
        3-Kẻ ác đồng mưu
        4-Phạm Thư lâm nạn
        5-Tiếng đàn rừng mai
        6-Ân tình rừng mai
        7-Vương Kê cầu hiền
        8-Phạm Thư sang Tần
        9-Tần Chiêu Tương vương
        10-Phạm Thư biểu
        11-Kiến giá Tần vương
        12-An Bình bắt Ngụy Xú Phu
        13-Bãi chức Nhương hầu
        14-Thừa tướng Phạm Thư
        15-Về cố hương
        16-Thiên võng khôi khôi
        17-Phạm Thư trả thù Tu Cổ
        18-Ngụy vương hiến công chúa
        19-Trảm Ngụy Tề
        20-Gặp lại người xưa
        21-Đánh Hàn chiếm Huỳnh Dương
        22-Phùng Đình hiến Thượng Đảng
        23-Triệu Hiếu Thành vương
        24-Phản gián khổ nhục liên hoàn kế
        25-Trận Trường Bình
        26-Bạch Khởi diệt hàng binh
        27-Tần vương giết Võ An quân
        28-Tống biệt hành
        29-Phạm Thư cáo quan
        30-Tiêu dao Ứng thành

         

        <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 09:50:11 bởi HanSiNguyen >
        #4
          HanSiNguyen 24.05.2008 09:00:51 (permalink)
          0
          XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA
          TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA
          ===========================

          HÀN SĨ NGUYÊN


          TRUYỆN THƠ

          THỪA TƯỚNG
          ỨNG HẦU
          PHẠM THƯ



          BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH
          -2002-
           


          01. Phạm Thư thuở hàn vi

          Cuối thời Chiến quốc, Xuân thu (1)
          Sinh linh đồ thán, Đông Chu suy tàn
          Tam Tấn có Triệu, Nguỵ, Hàn
          Tần, Tề, Yên, Sở qua can tranh cường
          Nguỵ đô đóng ở Đại Lương
          Chiêu vương trị quốc, nhiễu nhương binh tình
          Thế nước suy yếu chông chênh
          Biên thuỳ bỏ ngỏ, kinh thành thiên di
          Càn qua quét lại lắm khi
          Chính hư binh nhược, cận kề bại vong
          Họ Phạm giúp nước dày công (11)
          Đời đời khanh tướng, nối dòng vương tôn
          Phù vân khó nỗi trường tồn
          Tổ tiên hưng vượng, cháu con điêu tàn.
          Phạm Thư xuất xứ cơ hàn
          Mẹ cha mất sớm, họ hàng lìa xa
          Bọt bèo trôi nổi la đà
          Quản chi cực nhọc, miễn là tồn sinh
          Thiên tư vốn dĩ thông minh
          Chuyên cần học tập, pháp binh ghi lòng
          Bách gia chư tử lão thông (21)
          Thuyết Nan cố sự ngược dòng mà chơi
          Thoắt đà mười tám năm trời
          Nên trang bản lãnh, ra người tài hoa
          Lòng riêng, riêng những ước mơ
          Đem tài Ninh Thích giúp cho Tề Hoàn
          Công cha nghĩa mẹ chu toàn
          Trung quân báo quốc trị an nước nhà
          Quần bô áo vải xót xa
          Không người tiến dẫn khó mà nên danh
          Lược thao xếp xó đã đành (31)
          Trước thềm Tu Cổ, hạ mình đánh xe
          Ngày ngày hai buổi đi về
          Mơ phá Thành Bộc, tưởng truy Hào Đình
          Vẫy vùng Nam quận, Yên Kinh
          Khi an Cự Lộc, khi bình Hàm Dương
          Ngựa xe rong ruổi sa trường
          Chí như Tôn tử, tài dường Ngô quân
          Đêm khuya mơ tuởng Tô Tần
          Uốn ba tấc lưỡi canh tân nước nhà
          Tai nghe gà gáy xa xa (41)
          Giật mình tỉnh giấc, xó nhà nằm co
          Một mình một bóng bơ vơ
          Bốn bề cô quạnh, thương cho nỗi đời
          Tài năng chuyển đất rung trời
          Thời cơ không có, sức người mong manh
          Ngư ông sông Vị nương mình
          Lược thao rèn giũa, pháp binh trau dồi
          Thu qua, Đông lại, Xuân trôi
          Ba năm ròng rã làm người xa phu
          Đón đưa Tu Cổ đại phu (51)
          Việc công góp ý, việc tư lo lường
          Giang hồ hào sĩ tứ phương
          Tình như thủ túc, lễ nhường hàn nho
          Khi vui khúc nhạc, cuộc cờ
          Khi buồn chén rượu, bài thơ giải phiền
          Miệng Cổ không ngớt ngợi khen
          Lòng Tu đố kỵ, ghét ghen chất chồng
          Phạm Thư tận nghĩa tận trung
          Nghĩ mình ăn quả, cố công vun bồi
          Cúc cung tận tuỵ ở đời (61)
          Biết đâu lòng dạ con người hiểm sâu.
          <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 09:52:49 bởi HanSiNguyen >
          #5
            HanSiNguyen 24.05.2008 09:09:52 (permalink)
            0
            GIẢN CHÚ đọan 1 (by NGUYỄN PHÚ)
             
            1-Thuở hàn vi : thời còn nghèo khổ, lúc chưa có công danh sự nghiệp.

            2-Chu : Một vương triều ở Trung quốc thời cổ đại, sau nhà Ân (Thương). Khởi đầu từ lúc Chu Võ vương (Cơ Phát) đem quân Tây kỳ qua bến Mạnh Tân diệt Trụ vương. Triều đại nhà Chu gồm 2 thời kỳ :

            -Thời Tây Chu : Từ Võ vương đến U vương , trải qua gần 400 năm. Đóng đô ở Tây kỳ. Thời đại này có thể nói là thời thịnh trị. Đến đời Chu U vương, vua này say đắm mỹ nhân Bao Tự khiến sinh ra loạn lạc triền miên, sau phải dời đô về Lạc Dương ở phía Đông. Từ lúc ấy, Tây Chu cáo chung, bắt đầu thời đại Đông Chu.

            -Thời Đông Chu : từ Chu Bình vương đến khi mất nước, cũng kéo dài hơn 400 năm. Vua Đông Chu dần dần chỉ còn là hư vị, ngồi làm Thiên tử bù nhìn ở Lạc Dương chứng kiến thiên hạ loạn lạc, chư hầu tranh bá đồ vương mà thôi.

            3-Xuân Thu : Thời kỳ 800 nước chư hầu của nhà Chu tranh giành quyền lực, đấu đá, thôn tính lẫn nhau. Trong thời Xuân Thu kéo dài hơn 200 năm, trước sau có 5 vị bá chủ (Ngũ bá) đó là : Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Tần Mục công, Tống tương công, và Sở Trang vương. Trừ Tống Tương công ra, bốn người còn lại đều là những bậc kỳ tài, xuất chúng, uy đức và công nghiệp bao trùm cả thiên hạ. Các nước nhỏ lần lượt bị thôn tính, mất dần.

            4-Chiến Quốc : Thời kỳ tiếp theo Xuân Thu, cũng kéo dài gần 200 năm. Trong thời này, chỉ còn lại 7 nước lớn (Tần, Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ) luôn năm chinh chiến, công phá lẫn nhau, tranh giành quyền thống trị thiên hạ. Trong khi đó, tất cả vẫn công nhận nhà Đông Chu là ... Thiên tử, như một quyền lực hư vị. Về sau, Tần Thuỷ hoàng diệt Chu, gồm thâu lục quốc, thống nhất thiên hạ, lập nên nhà Tần, là triều đại chính thức nối tiếp triều đại Chu.

            5-Sinh linh : (Sinh : sống - Linh : linh hồn - Sinh linh : những tạo vật , chỉ chung cả người lẫn động vật). Nghĩa phổ thông : Bá tánh, bách tính, trăm họ, muôn dân, nhân dân.

            6-Đồ thán : (Thán : than oán - Đồ : giết, bị giết). Nghĩa rộng : Ta thán vì cực khổ đủ mọi mặt, cực khổ đến cùng cực.

            7-Tấn : Một chư hầu lớn của thời Đông Chu, đất đai ở miền Bắc và Trung Trung quốc.(thường gọi là Trung nguyên). Do đặc điểm địa lý ấy, Tấn là một nước lớn, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phân bổ thế và lực của nhiều nước xung quanh. Thời cực thịnh của Tấn là thời Tấn Hiếu Công, và sau đó là Tấn Văn công (Trùng Nhĩ) . Vị này là một trong Ngũ bá.

            8-Tam Tấn : Khi Tấn suy, các quan khanh họ Nguỵ, họ Triệu, họ Hàn thoả thuận chia nước Tấn ra thành ba nước nhỏ là : Nguỵ, Hàn, Triệu (gọi chung là Tam Tấn : Ba nước Tấn ... nhỏ ). Trong ba nước này, Triệu mạnh nhất về quân sự, nhất là sau khi thôn tính nước Trung Sơn và nước Đại ở phương Bắc. Còn Nguỵ thì có ảnh hưởng lớn về chính trị, văn hoá, nhờ ở vào vị trí trung tâm của Trung quốc thời ấy.

            9-Qua can : (Qua : giáo- Can = côn : cây gậy) , cũng như “can qua”, nghĩa là côn và giáo, tên các binh khí thời ấy. Từ này ngầm chỉ việc chiến tranh
            Qua can tranh cường : Dùng gươm giáo để phân định hơn thua, mạnh yếu

            10-Biên thuỳ : Biên cương, biên giới, vùng đất ở ranh giới giữa 2 nước

            11-Thiên di : Dời đi, chuyển đi nơi khác.

            12-Nhược : yếu (phản nghĩa của Cường : mạnh)

            13-Hư vong : Suy sụp, mất nước

            14-Vương tôn : con vua cháu chúa. Chỉ giới quý tộc, thượng lưu trong thời cổ xưa.

            15-Phù vân : Mây nổi.
            Thơ cổ có câu : “Thiên thượng phù vân như bạch y; Tiêu diêu hốt biến vi thương cẩu”.
            Nghĩa là “Trên trời mây nổi lơ lửng như chiếc áo trắng; Thoắt một cái đã vội biến thành con chó màu xanh”; ý cả câu muốn nói đến sự thay đổi “Tang thương dâu bể” ở cõi đời này, không có gì tồn tại lâu dài mãi được.

            16-Trường tồn : Tồn tại lâu dài, còn lại lâu dài, không bị mất đi.

            17-Hưng vượng : Thịnh vượng lên, giàu có thêm, phát đạt hơn.

            18-Điêu tàn : Suy tàn, tàn dần, điêu đứng khổ sở.

            19-Xuất xứ cơ hàn : Xuất thân từ chỗ nghèo đói mà ra. (Cơ : đói; Hàn : lạnh)

            20-Tồn sinh : (cũng như “Sinh tồn”) nghĩa là sống còn, còn duy trì, còn kéo dài được mạng sống.

            21-Thiên tư : Vốn liếng trời cho

            22-Thông minh : Tinh anh, sáng láng, sáng suốt, lanh lợi.

            23-Pháp binh :
            -Pháp : tương tự như khoa “Chính trị học” ngày nay, trọng tâm là cách điều hành một quốc gia, quản lý kinh tế, tài chính, hành chính, xã hội.
            -Binh : tương tự như khoa “Quân sự học” ngày nay; trọng tâm là phép hành quân, đánh trận, tổ chức quân đội.

            24-Bách gia chư tử : Các bậc thầy (người giỏi) trăm nhà thời Chu. Mỗi nhà là một trường phái triết học khác nhau, bao gồm Khổng tử,Mạnh tử (Nho), Lão tử (Lão), Mặc tử (Kiêm ái), Tôn tử (Binh), Quỷ Cốc tử (Số) v.v......

            25-Lão thông : làu thông, hiểu rõ, thông suốt, thuộc lòng.

            26-Thuyết Nan cố sự : những chuyện cũ, những sự kiện thời trước được ghi lại trong sách “Thuyết Nan”.
            Thuyết Nan : ( Du thuyết khó , Khó mà nói để thuyết phục được người ta ) là một pho sách cổ , ghi lại những mẩu chuyện về những người giỏi khoa miệng lưỡi, giỏi biện luận, chuyên dùng lý lẽ để khuất phục các vua chúa thời đó.

            27-Trang bản lãnh : Người có tài năng thực sự về các lãnh vực thực dụng trong cuộc sống.
            Người tài hoa : Người giỏi về các môn nghệ thuật.

            28-Ninh Thích : Một nông dân, gặp vua Tề Hoàn công (Tiểu Bạch) lúc đang ... chăn trâu; được vua Tề trọng dụng, mời ra giúp nước. Ninh Thích là một trong số năm vị quan đầu triều của nước Tề, lúc Tề làm bá chủ chư hầu.

            29-Tề Hoàn : tức Tề Hoàn Công, vị bá chủ đầu tiên thời Xuân Thu

            30-Chu toàn : Hoàn thành chu tất mọi việc

            31-Trung quân báo quốc : Trung với vua, báo đền ơn nước.

            32-Trị an nước nhà : Góp tay vào việc bình trị, cai quản công việc trong nước, khiến cho nước nhà được yên ổn.

            33-Quần bô : Quần may bằng vải bô, một loại vải gai, vải đay, dệt bằng sợi thô, cứng.

            34-Tiến dẫn : Dẫn dắt, tiến cử người có tài lên cấp trên, để cho người ấy được trọng dụng.

            35-Nên danh : Trở nên người có danh tiếng; Đạt được thành công trong đời.

            36-Lược thao : (Lược : Mưu kế- Thao : Phép dùng binh), nghĩa cũng giống như “Thao lược”, nghĩa là tài năng, mưu trí (trong việc cầm quân, đánh trận)

            37-Đại Lương : tức Biện Lương, Khai Phong, kinh đô nước Nguỵ, nay là thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc

            38-Thành Bộc : Địa danh nổi tiếng thời Xuân Thu, nơi xảy ra cuộc giao binh giữa Tấn và Sở. Nguyên soái nước Tấn Tiên Trẩn phá tan quân Sở của Thành Đắc Thần, khiến tướng này phải đâm cổ tự sát

            39-Truy : đuổi theo

            40-Hào Đình : tức Hào Sơn, cũng gọi là Đông Sơn, nơi Nguyên soái nước Tấn Tiên Trẩn đại phá quân Tần, bắt sống cả 3 viên tướng chỉ huy, gồm đó có Mạnh Minh Thị là con trai của Tả thừa tướng Bá Lý Hề, Kiển Bính là con trai Hữu thừa tướng Kiển Thúc, và mãnh tướng Tây Khuất Thuật, cả 3 đều là tướng giỏi bậc nhất thời ấy.

            41-Nam Quận : tức Dĩnh Đô, kinh đô nước Sở

            42-Yên Kinh : kinh đô nước Yên

            43-Cự Lộc : Một trọng điểm chiến lược về mặt quân sự ở nước Triệu, thuộc tỉnh Hà Bắc. Đồng thời cũng là quê hương bản quán của họ Triệu

            44-Hàm Dương : kinh đô nước Tần, thuộc Tây An, Thiểm Tây ngày nay

            45-Sa trường : Chiến trường

            46-Tôn tử : tức Tôn Vũ, người Tề, làm tướng Ngô, có công diệt nước Sở. Tôn Vũ đã soạn ra một bộ binh pháp bất hủ có tên là “Tôn tử binh pháp” gồm 13 thiên, đến ngày nay vẫn còn giá trị.
            Cháu nội của Tôn Vũ là Tôn Tẫn cũng được người đời gọi là Tôn tử.
            Tôn Tẫn học Binh pháp của Quỷ Cốc tử kết hợp cùng binh pháp gia truyền, trở thành một binh gia nổi tiếng không kém gì Tôn Vũ. Ông làm quân sư cho tướng Tề Điền Kỵ, tiêu diệt được Phò mã nước Nguỵ Bàng Quyên
            Gã Bàng Quyên này vốn là bạn học đồng môn của Tôn Tẫn, vì ghen tài đã phản bạn, chặt đứt gân chân họ Tôn, khiến Tôn Tẫn phải tàn tật suốt đời.

            47-Ngô quân : tức Ngô Khởi người nước Vệ, làm tướng cho Lỗ, Nguỵ, Sở. Quân của ông nổi tiếng là “Phụ tử chi binh” (Tướng với quân coi nhau như cha con)
            Tôn Vũ và Ngô Khởi được người đời sau xem như 2 vị tướng giỏi nhất mọi thời đại.

            48-Tô Tần : học trò của Quỷ Cốc tử, nổi tiếng về tài năng “Du thuyết”
            (Du thuyết nghĩa là đi các nơi, dùng miệng lưỡi chinh phục vua chúa, khiến họ phải nghe theo các sách lược của mình).
            Tô Tần là người đề ra chiến lược “Hợp tung” (Hợp 6 nước theo chiều dọc, hình thành thế Đông Tây đối đầu, Đông gồm 6 nước - Tây là nước Tần). Ông du thuyết lục quốc kêu gọi họ liên hợp sức mạnh của 6 nước chống lại nước Tần. Tô Tần là người duy nhất thời Chiến quốc được phong làm “Tướng quốc 6 nước”.
            Trong khi đó Trương Nghi (bạn đồng môn với Tô Tần) lại đề ra chiến lược “Liên hoành”(Liên kết các nước theo trục ngang, hình thành thế Bắc Nam phân tranh, Bắc gồm Tần, Yên, Triệu - Nam gồm Hàn, Nguỵ, Tề, Sở). Trương Nghi cũng làm đến chức tướng quốc nước Tần (đời Tần Huệ Văn vương).
            Hai chiến lược “Hợp tung” và “Liên hoành” giằng co với nhau trong hơn nửa thế kỷ. Lúc thì chiến lược này giành ưu thế, lúc thì chiến lược kia chiếm tiên cơ.

            49-Canh tân : (Canh : sửa sang lại - Tân : làm mới lại) = Đổi mới, cải cách, cải tổ

            50-Ngư ông sông Vị : chỉ Khương Thượng (Khương Tử Nha), cũng gọi là Lã Vọng, người đã có thời hàn vi kéo dài đến 70 năm ! Làm ngư ông câu cá ở sông Vị (Vị thuỷ, Vị hà), đặc biệt lưỡi câu của ông thẳng băng, không có móc câu. Người đời thắc mắc, ông bảo : -“Câu tôm câu cá lưỡi câu phải cong; câu danh câu lợi chẳng cần đến móc !”
            Sau được Văn vương trọng dụng, trao cho binh quyền, Khương Thượng đã giúp Võ vương diệt Trụ lập nên nhà Chu

            51-Nương mình : (Nương : nương dựa , nương náu.) Ẩn mình chờ thời

            52-Trau dồi : dùi mài (cho sắc bén, giỏi giang)

            53-Xa phu : người đánh xe; người điều khiển ngựa kéo cỗ xe ngựa

            54-Đại phu : Chức quan văn trung cấp trong các triều đình cổ xưa.

            55-Giang hồ hào sĩ : (Sĩ : người có học - Hào : hào kiệt, người anh hùng) Những người tài giỏi cả văn lẫn võ ở khắp mọi nơi, (Giang hồ : khắp các sông hồ, khắp 4 phương trời)

            56-Thủ túc : tay chân.
            Tình như thủ túc : tình thắm thiết, gần gũi, không thể chia lìa như tay với chân trong cùng một cơ thể.

            57-Hàn nho : kẻ sĩ nghèo, nho sinh nghèo, học trò nghèo.

            58-Tận nghĩa tận trung : Hết sức hết lòng giữ trọn 2 chữ “Trung, nghĩa”

            59-Vun bồi : vun thêm cho cao, đắp thêm cho dày

            60-Cúc cung tận tuỵ : Dốc lòng cố gắng

            61-Hiểm sâu : bề mặt thì tử tế, tốt lành; nhưng trong đáy lòng thì mưu mô ác độc, chỉ chực lén lút hại người.

            #6
              HanSiNguyen 24.05.2008 09:13:09 (permalink)
              0
              LƯỢC BÌNH đọan 1 (by NGUYỄN HỒNG BẢY - H7C)
               
              1-Sự phân hoá của xã hội :

              Từ xưa đến nay, ở bất cứ xã hội nào, quốc gia nào, thời đại nào cũng đều có một sự phân hoá giống nhau. Đó là sự phân hoá giàu nghèo. Trong số một trăm người, thường thì chỉ có một người xuất thân từ chăn ấm nệm êm, cửa cao nhà rộng - chín mươi chín người còn lại phải xuất thân từ túng cùng nghèo khổ.

              Giữa những người nghèo khổ ấy, lại hình thành ra nhiều tầng nấc khác nhau :

              -Sung sướng nhất vẫn là những người nghèo mà không khổ. Chỉ thiếu thốn đôi chút, chật vật vừa phải, hoặc lao động vất vả ở mức độ còn có thể chấp nhận được.

              -Kế đến là những người nghèo khổ : vừa nghèo vừa khổ. Người thì gia đình xào xáo, chia lìa. Người thì triền miên bệnh tật, túng thiếu, đói ăn, khát uống. Người thì không có cả đến một mái nhà làm chỗ nương thân. Người thì bôn ba trôi dạt khắp bốn phương trời, lây lất vì miếng cơm manh áo trói buộc mãi không thôi. Người thì suốt đời làm thuê làm mướn, làm tôi làm mọi, hết đời này sang đời khác, chẳng khác nào con sâu cái kiến mà ai cũng có thể dẫm đạp lên được.

              -Nhưng cái thành phần khốn khổ nhất vẫn là thành phần trẻ mồ côi, mất cha mất mẹ, bị thân nhân ruồng bỏ, khiến phải sống tha phương cầu thực. Việc cực nhọc nào cũng sẵn sàng làm. Thức ăn bỏ đi nào cũng có thể bỏ vào miệng. Xó hang tối tăm ẩm thấp nào cũng có thể chui rúc, miễn sao là còn giữ được sinh tồn !

              Victor Hugo-đại văn hào Pháp- trong nhiều tác phẩm kinh điển của ông, đã từng viết và cảm thương cho cái tầng lớp bị vùi dập ở tận cùng dưới đáy bùn đen của xã hội này.

              2-Hai hướng vận động ngược chiều :

              Dễ dàng nhận thấy có một thực tế dường như “nghịch lý” (trái với lẽ thường), thường xuyên diễn ra, đó là 2 hướng vận động ngược chiều trong tiến trình “vươn lên” của các thành viên trong xã hội :

              -Ở vào hoàn cảnh được hưởng mọi tiện nghi vật chất, mọi điều kiện thuận lợi để ăn học, để nên người, để thành đạt cao trong xã hội, một số lớn con cái nhà giàu có đã không biết nắm bắt, tận dụng những lợi thế vô cùng lớn ấy. Họ lơi là việc học tập, buông lỏng việc rèn luyện bản thân, sa đà vào ăn chơi, phí uổng cả tuổi xuân lẫn thời gian cũng như tiền bạc vào những công việc phù phiếm, vô vị, vào những trò giải trí vô bổ, rỗng tuếch; thậm chí trở thành “phá gia chi tử”, phá tan tành sự nghiệp do cha mẹ suốt cả đời chắt chiu, khó nhọc xây dựng.

              -Ngược lại, một số không ít con em nhà bần dân lại nỗ lực vươn lên, thực hiện thành công những cuộc “đổi đời” ngoạn mục ! Có người phải lấy khố chuối che thân, có người phải bắt đom đóm thay đèn, có người chuyên “học nước rút” trong những đêm trăng sáng , có người phải học cách dùng que vạch chữ trên cát thay cho giấy bút, có người phải học lóm bên mái hiên trường, có người học hoàn toàn bằng sách vở, tư liệu đi mượn của kẻ khác. Cuối cùng thì nỗ lực của họ cũng được đền đáp xứng đáng. Thật đáng khen làm sao. Thật vẻ vang làm sao !
              Sử sách xưa và nay đã ghi nhận rất nhiều những trường hợp ngược đời như vậy .

              Có thể nói được rằng : Sự sung túc -không biết tận dụng- sẽ làm mất động cơ tiến lên, làm thoái hoá trì trệ con người. Còn nghèo khổ - vốn không phải là trái ngọt để người ta ưa thích hay ham muốn - nhưng xét trên một bình diện nào đó, chính “sự nghèo khổ” cũng có ý nghĩa tích cực của nó. Nó đã trở thành chất xúc tác, nguồn động lực kích thích người ta vươn lên, thoát ra khỏi ... chính nó vậy ! .

              3-Trở lại cùng nhân vật Phạm Thư :

              Qua chỉ một vài dòng khắc hoạ sơ lược của HSN, ta cũng thấy được một con người xuất thân cùng khổ :-“Mẹ cha mất sớm, họ hàng lìa xa, trôi dạt đây đó, việc gì cũng làm, chăm chỉ học tập v.v...”
              Đứa trẻ mồ côi cha mẹ - từ khi 12 tuổi này - đã mất đến 18 năm lăn lộn vất vả để cuối cùng trở thành một “trang bản lãnh, người tài hoa, tài năng chuyển đất rung trời, hào sĩ giang hồ đều kính nhường, thân như thủ túc v.v...”
              Mười tám năm lăn lóc dưới đáy xã hội ! Mười tám năm xuất thân từ hoàn cảnh khốn cùng, con người ấy đã phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ ! Người viết không nói rõ, nhưng chúng ta đều có thể tưởng tượng ra được sự khốn khó cùng cực, ý chí vươn lên mạnh mẽ của con người ấy là vô cùng ! Vô cùng !

              Ý chí vươn lên ấy có thể là gương sáng cho nhiều người, thuộc mọi thời đại khác nhau, cùng noi theo vậy.

              Xin có thơ rằng :

              Quản chi cơ cực lúc đầu đời
              Nuốt trôi vị đắng giọt sầu rơi
              Bền chí, công thành danh hiển đạt
              Hơn nhau một chút ấy mà thôi.

              Hồng Thất Công (2001)
              #7
                HanSiNguyen 29.05.2008 10:02:54 (permalink)
                0
                Phạm Thư tận nghĩa tận trung
                Nghĩ mình ăn quả, cố công vun bồi
                Cúc cung tận tụy ở đời (61)
                Biết đâu lòng dạ con người  hiểm sâu.
                 
                    -2-
                 
                TU CỔ ĐI SỨ NƯỚC TỀ
                 


                 
                Ngày kia vua Ngụy khai chầu
                Bá quan văn võ đứng hầu hai ban
                Chúa tôi quốc sự luận bàn
                Phân vân chưa biết liệu toan cách nào
                An Ấp, Tần muốn đã lâu
                Ngày nay yêu sách phải giao năm thành
                Không giao tất xảy chiến tranh
                Đầu rơi máu chảy, quốc thành tan hoang
                Thuận lòng chiều lũ sói lang (71)
                Đem dê nuôi cọp, cọp càng thêm nanh
                Ngày sau nó lại vồ mình
                Chi bằng cự tuyệt dứt tình cho xong
                Tu Cổ bàn kế sang Đông
                Giao hoà lân quốc mua lòng Tề vương
                Môi răng liên kết hỗ tương
                Sách lược hợp nhất, song phương đồng hành
                Vua rằng:-“Muốn kế ấy thành,
                Phải cho sứ giả thuyết minh với Tề
                Gấm trăm đoạn, lụa trăm xe (81)
                Bạc vàng chẳng tiếc, chỉ e thiếu người
                Trước sau không có nhân tài
                 Ai người du thuyết giãi bày chủ trương ?
                Việc giao Tu Cổ đảm đương !”
                Đại phu vâng lệnh rắp đường Đông du
                Đem theo cả gã xa phu
                Trước là giong ngựa sau nhờ trí  mưu
                Hành trang chuẩn bị lao xao
                Cân phân mọi lẽ, hôm sau đăng trình

                Đông thành có Trịnh An Bình (91)
                Vóc người cao lớn dáng hình oai phong
                Thân nhau trải mấy thu đông
                Văn tài điêu luyện võ công hơn người 
                Ngày thường cơm độn ngô khoai
                Anh em tương kính ngọt bùi sẻ chia
                Nhân nay có việc sang Tề
                Xin cùng Tu Cổ cho đi theo hầu
                Đánh xe dắt ngựa có nhau
                Mã phu chân ấy ai cầu mà chi
                Đường xa có bạn có bè (101)
                Giúp lo rơm cỏ, phòng khi chẳng lành
                Hôm sau vừa rạng bình minh
                Một đoàn xe ngựa rời thành Đại Lương
                Vó câu trực chỉ viễn phương
                Hai mươi mãnh tướng đường đường oai phong
                Ba ngày rong ruổi ruổi rong
                Thoắt đà đến trước cửa Đông nước Tề
                Điệp văn trình báo mọi bề
                Cổng thành rộng mở rước về dịch trung
                Nghỉ ngơi đâu đó vừa xong (111)
                Vua ban yến tiệc thưởng công sứ thần
                Rượu ngon say đã bảy phần
                Tề vương hạ lệnh hai quân tranh tài
                Tướng văn tướng võ mua vui
                Thưởng công trăm lượng cho người tài cao
                Hai mươi mãnh tướng theo hầu
                Kẻ trước tan tác, người sau quáng quàng
                Cọp long móng, cua mất càng
                Khôn nhà dại chợ, bẽ bàng lặng thinh
                May mà còn Trịnh An Bình (121)
                Mã phu nổi trận lôi đình ra oai
                Một phen tráng sĩ  trổ tài
                Tướng Tề đổ máu, gãy tay, vỡ đầu 
                Người sứt trán, kẻ xuôi râu
                Quan quân hổ thẹn, vương hầu thất kinh
                Sức thua, thua đã phân minh
                Lệnh vua lại khiến giao tranh cuộc cờ
                Thử xem trí giả hiền ngu
                Danh kỳ Tề quốc so đo sứ thần
                Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
                Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
                Sắp bày địa võng thiên la
                Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông 
                Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
                Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi
                Vua tôi Tề quốc hỡi ơi
                Kém anh dắt ngựa, thua người đánh xe
                Lòng riêng, riêng những não nề
                Tiếng là thượng quốc, cam bề thất cơ ?
                An dân, quốc sách, binh cơ (141)
                Ba câu vấn nạn, sững sờ kinh tâm
                Mồ hôi Tu Cổ tuôn dầm
                Rành rành có miệng hóa câm bao giờ
                May thay còn có Phạm Thư
                Lẹ làng ứng đối giải trừ khó khăn
                Dễ dàng định quốc an dân
                Dụng binh mưu trí quỷ thần cũng thua
                Tề vương ngơ ngẩn ngẩn ngơ
                Cười thầm vua Ngụy bỏ lơ nhân tài
                Rõ là có mắt không ngươi  (151)
                Tài năng thế ấy làm người xa phu !
                Thưởng cho vàng lụa gấm tơ
                Khuyên mời ở lại, dưới cờ lập công.

                Bấy giờ đại tiệc vừa xong
                An Bình chí muốn nghinh phong theo Tề
                Bàn rằng :-“Cơ cực hàn vi,
                Bao năm ở Ngụy thảm thê não nùng
                Tề vương có lượng bao dung
                Chi bằng ở lại lập công xứ này !”
                Thư rằng :-“Đạo lý xưa nay (161)
                Lá rụng về cội, cáo quay về nguồn
                Dẫu rằng ở Ngụy héo hon
                Lẽ nào tham lợi mưu toan giúp Tề
                Mồ cha mả mẹ còn kia
                Thế nào cũng phải trở về cố hương
                Ngày nay phụ ý Tề vương
                Ngày sau Trời sẽ dọn đường cho ta”
                Bình rằng :-“Trí giả trông xa
                Một lòng vì nước thật là đáng khen
                Chỉ e tôi nịnh vua hèn (171)
                Chuyến này về Ngụy khó yên trong ngoài
                Trước là cơ hội phí hoài
                Sau là khổ lụy khiến người cười chê
                Tốt hơn hãy ở lại Tề !”
                Thư cười :-“Kẻ sĩ ngại gì dèm pha
                Lương tâm sáng tựa sao sa
                Hồ đồ thêu dệt, chẳng qua hồ đồ
                Mặc cho thiên hạ mưu mô
                Lẽ nào quân tử bo bo lợi mình
                Thư này quyết chẳng ham danh (181)
                Cũng không hám lợi cầu vinh xứ người
                Chí ta, ta đã quyết rồi
                Ra tài phụng sự vun bồi quê hương
                Lâm Tri kim mã ngọc đường
                Sao bằng tiểu tốt Đại Lương cô thành !”
                Bình nghe kiên quyết ý tình
                Thôi thì may rủi tử sinh mặc trời
                Cam lòng bạn hữu có đôi
                Cùng về cố quốc buồn vui chung phần
                Tề, Ngụy kết mối tương thân (191)
                Sứ đoàn Tu Cổ nhanh chân ra về
                Môi răng liên kết chở che
                Mới mong ngăn chặn bánh xe nước Tần
                Chia tay, vua  lại ân cần
                Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
                Ban cho hảo tửu trân châu
                Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
                <bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 10:12:25 bởi HanSiNguyen >
                #8
                  HanSiNguyen 29.05.2008 10:07:02 (permalink)
                  0
                  GIẢN CHÚ  Đoạn 2, trang 19-23
                  by Nguyễn Phú

                  TU CỔ ĐI SỨ NƯỚC TỀ
                   
                  1-Khai chầu: Mở một cuộc hội họp (định kỳ) giữa vua và các quan ở ngay tại cung đình.(Khai chầu = khai trào = khai triều)
                  2-Bá quan : Trăm quan, các quan
                  3-Chúa tôi : Vua và các bề tôi
                  4-Quốc sự luận bàn : Thảo luận, bàn bạc về các sự kiện quan trọng trong nước
                  5-Yêu sách : Đòi hỏi những điều quá đáng, khó thực hiện, khó đáp ứng.
                  6-Quốc thành :
                  -Kinh thành, thủ đô của một nước
                  -Các thành trì trong nước
                  7-Lũ sói lang : bọn người độc ác như chó sói, chỉ chực phanh thây xẻ thịt người khác
                  8-Cự tuyệt : Từ chối dứt khoát, từ chối thẳng thừng.
                  9-Lân quốc : Nước láng giềng (Như : Lân bang)
                  10-Hỗ tương : lẫn nhau; giúp đỡ cho nhau
                  11-Sách lược hợp nhất, song phương đồng hành : Hai nước có chung một chính sách (đối ngoại), thống nhất cùng nhau hành động , cùng đi chung đường với nhau.
                  12-Thuyết minh : giải thích, trình bày cho rõ ràng một vấn đề
                  nào đó
                  13-Rắp (đường Đông du) : chuẩn bị sẵn trong đầu (mọi cách thức, mọi đường lối sẽ thực hiện khi sang Tề đi sứ)
                  14-Hành trang : hành lý, vật dụng mang theo khi đi đường
                  15-Cân phân : Tính toán tỉ mỉ, chi tiết, rõ ràng, kỹ lưỡng
                  16-Đăng trình : Lên đường, bắt đầu một chuyến đi
                  17-Mấy thu đông : Mấy năm
                  18-Điêu luyện : Cực khéo, cực giỏi
                  19-Mã phu : Người chăn dắt ngựa
                  20-Viễn phương : Phương xa
                  21-Mãnh tướng : Tướng mạnh
                  22-Điệp văn : văn thư, văn kiện chính thức của nước này gửi cho nước kia, nhằm thông báo một sự kiện quan trọng, hoặc giới thiệu một người nào đó đảm nhận một nhiệm vụ chính thức được phân công. Từ hiện đại gọi là “thông điệp”, “quốc thư”, “uỷ nhiệm thư”.
                  23-Dịch trung : Nghĩa giống như “quán dịch, dịch quán, dịch đình, dịch đường”.
                  Nơi dành riêng cho các đoàn khách nước ngoài nghỉ ngơi khi đi sứ . Từ hiện đại là “Nhà khách ngoại giao đoàn”, “Lễ tân phủ”.
                  24-Quáng quàng : Cuống cuồng lên vì tối mắt tối mũi, không còn phân biệt được đông tây nam bắc gì nữa.
                  25-Nổi trận lôi đình : nổi giận đùng đùng.
                  Ngày xưa ở chốn công đường, khi các quan phụ mẫu nổi cơn tức giận, thường quát tháo ầm ầm như sấm như sét, khiến dân đen thất kinh hồn vía, vì thế mới gọi là “nổi trận lôi đình”. Công đường, nơi xử án, cũng được gọi là “sân lôi đình” vì lẽ ấy.
                  26-Thử xem trí giả hiền ngu : Thử xem xem những người mưu trí, giỏi hay là dở.
                  -Hiền : giỏi, có tài có đức
                  -Ngu : kém cỏi, vụng dại, ít tài thiếu đức
                  -Trí giả : Người có mưu trí, người có học thức
                  27-Danh kỳ : Những người đánh cờ giỏi, nổi tiếng.
                  28-Tốc chiến : đánh nhanh, đánh ào ạt, mục đích muốn thắng nhanh.
                  29-Kiên thủ : Kiên trì, kiên cường phòng thủ. Thủ ráo riết, chắc chắn, kín kẽ, không để lộ ra sơ hở nào cho đối phương khai thác. 
                  30-Địa võng thiên la : Những tấm lưới bủa giăng khắp trên trời dưới đất, không cho người và chim chóc, muông thú ra thoát. Ý là : “xiết chặt vòng vây”.
                  31-Trấn biên mai phục :
                  -Mai phục : Giấu quân, không lộ diện, nhằm đánh bất ngờ, mãnh liệt vào đối phương (Như : Phục kích)
                   -Trấn biên : Những vùng biên cương, biên giới, vùng hoang vắng hiểm trở, xa nơi kinh thành.
                  32-Sơn hà tương thông : Núi và sông thông được với nhau. Ý nói các vùng trong nước đều dễ dàng qua lại, tiếp ứng, cứu viện cho nhau.
                  33-Liên hoàn trận : Một trận thế trong đó các thành phần quân đội tham gia đều giữ được mối dây liên kết chặt chẽ, sẵn sàng ứng cứu cho nhau, không có thành phần nào bị cô lập, tách rời ra khỏi tổng thể.
                  34-Thượng phong : Thế trên gió, thế xuôi gió; Nghĩa là “ưu thế, thế thuận lợi”.
                  35-Kỳ binh :
                  -Chính binh : là quân dàn trận đánh thẳng vào chính diện trận địa đối phương.
                  -Kỳ binh : là quân đánh bất ngờ, từ một hướng phụ không ai ngờ, đột nhiên tham chiến.
                  36-Tập kích : Từ xa, tiến đến đánh bất ngờ vào địch quân. (Như : Bôn tập)
                  37-Vãn hồi : Cứu vãn lại một cái đã thua, đã hỏng, đã mất.
                  38-Thượng quốc : Nước lớn hơn, nước mạnh hơn.
                  39-Thất cơ : Mất thời cơ, mất tiên cơ, mất thế chủ động, mất ưu thế thuận lợi.
                  40-An dân, quốc sách, binh cơ : Ba vấn đề lớn của một quốc gia, những sách lược để yên dân, trị nước, tổ chức quân đội.
                  41-Vấn nạn : Những câu hỏi khó đáp, khó giải quyết; Những vấn đề đau đầu, câu hỏi đố nhằm làm cho người ta phải bế tắc.
                  42-Kinh tâm : Hoảng sợ đến nỗi tim đập huỳnh huỵch.
                  43-Ứng đối : Tuỳ theo, nương theo người ta mà có cách đối đáp thích hợp với hoàn cảnh, với tình thế lúc ấy.
                  44-Giải trừ : Gỡ bỏ, giải thoát
                  45-Định quốc an dân : Làm cho dân được yên ổn sinh sống, nước được thái bình thịnh trị.
                  46-Dụng binh : Dùng binh, cầm quân đánh trận.
                  47-Nghinh phong : Đón gió, đoán trước cơ hội tốt của thời thế mà có cách xử lý thích hợp, mục đích thu được ích lợi nhất cho mình.
                  48-Cơ cực hàn vi : Đói lạnh, khổ sở.
                  49-Lượng bao dung : lòng độ lượng, rộng mở, biết tha thứ, không chấp nê, bắt lỗi người khác.
                  50-Đạo lý : Lẽ phải, đường ngay . Những chuẩn mực đạo đức trong xã hội mà con người phải theo, để xứng đáng gọi là “Người”
                  51-Cáo quay về nguồn : Do câu tục ngữ “Cáo chết ba năm quay đầu về núi”.
                  Cũng giống như câu “Lá rụng về cội”, đều có chung một ý là “con người phải biết đến cội nguồn, không được quên gốc tích cũa mình
                  52-Cố hương : Làng cũ, quê cũ - Cố quốc : Nước cũ.
                  53-Trí giả : Người có tri thức, có mưu trí, có hiểu biết, có học.
                  54-Hồ đồ thêu dệt, chẳng qua hồ đồ :
                  Những người thêu dệt chuyện (một cách hồ đồ) nhằm nói xấu người khác, chẳng qua chỉ chứng tỏ bản thân họ là người hồ đồ mà thôi
                  (Hồ đồ : Hàm hồ, bừa bãi, nói lấy được, đặt chuyện không cần biết đến lẽ phải)
                  55-Quân tử : Người tốt, người hiền, người vị tha bao dung (phản nghĩa của “Tiểu nhân” là “kẻ nhỏ mọn, ích kỷ”)
                  56-Cầu vinh : mưu toan tìm lấy sự vẻ vang, mưu lợi cho bản thân
                  57-Kim mã ngọc đường : Nhà bằng ngọc, ngựa bằng vàng. Ý nói nhà cao cửa rộng, giàu có, quyền thế.
                  58-Tiểu tốt : Lính quèn, người tầm thường, người không có vai vế gì trong cộng đồng.
                  59-Cô thành : Thành lũy đơn lẻ, không ai trợ giúp.
                  60-Tử sinh : Chết và sống.
                  61-Tương thân : thân nhau, hoà hoãn với nhau, thân thiết với nhau.
                  62-Chén quỳnh : tức “chén quỳnh tương” = chén rượu.
                  63-Hảo tửu trân châu : Rượu ngon, ngọc quý.
                  64-Đinh ninh từ tạ : Cám ơn, nhưng nhất định khăng khăng từ chối, không nhân.
                  #9
                    HanSiNguyen 29.05.2008 10:22:27 (permalink)
                    0
                    LỜI BÀN đoạn 2 (by Nguyễn Hồng Bảy)
                     
                    1-Thủ pháp phục bút “20 viên mãnh tướng”
                     
                    Khi phái đoàn Tu Cổ chuẩn bị đi sứ nước Tề, người viết đã nhẹ nhàng hạ mấy câu như sau :
                     
                    Hôm sau vừa rạng bình minh
                    Một đoàn xe ngựa rời thành Đại Lương
                    Vó câu trực chỉ viễn phương
                    Hai mươi mãnh tướng đường đường oai phong (106)
                     
                    Đi sứ tất phải có người bảo vệ cho sứ thần và các tặng phẩm vàng lụa, việc 20 viên tướng mạnh đi theo hộ vệ cũng là điều hợp lý. Oai phong cũng là điều hợp lý.

                    Cái oai phong lẫm liệt ấy thể hiện qua 4 chữ “đường đường oai phong”. Chỉ thế thôi nhưng cũng đủ cho thấy đó là 20 con người cao lớn, hùng dũng, hiên ngang qua tầm vóc của thân xác, qua uy nghi của dáng vẻ, qua rực rỡ của y giáp
                     
                    Chỉ nói vài câu rồi lảng sang chuyện khác.
                    Mười một câu sau đó, ở câu 117-120, ta lại bất ngờ gặp lại 20 viên mãnh tướng ấy, nhưng trong một bối cảnh khác, bối cảnh cuộc so tài ở triều đình Tề, cái “oai phong” của 20 viên tướng mạnh ấy nối tiếp như sau :
                     
                    Hai mươi mãnh tướng theo hầu
                    Kẻ trước tan tác, người sau quáng quàng
                    Cọp long móng, cua mất càng
                    Khôn nhà dại chợ, bẽ bàng lặng thinh
                     
                    Thật là bất ngờ.
                    Đó chính là thủ pháp “Phục bút” : ở đoạn trước nói lướt qua một điều gì đó, tưởng là tầm thường, để rồi ở đoạn khác tiếp nối sau, trở lại điều ấy với những bất ngờ thú vị, thậm chí đảo ngược hoàn toàn tất cả nhãn quan, định kiến trước đó.
                     
                    Té ra cái oai phong của họ chỉ là như thế mà thôi : “Khôn nhà dại chợ !”
                     
                    Phục bút “20 viên mãnh tướng” như thế nhằm mục đích gì ?
                    LAMXT xin được trả lời trong một bài bình khác.
                     
                    2-Sự xuất hiện từ rất sớm của Trịnh An Bình :
                     
                    Trong Sử ký Tư Mã Thiên và Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa, Trịnh An Bình chỉ xuất hiện sau khi Phạm Thư lâm nạn, ra tay cứu sống Phạm Thư, rồi cùng nhau theo Vương Kê sang Tần.
                    Trong truyện thơ TTUHPT, Trịnh An Bình được HSN cho xuất hiện rất sớm, cùng theo Tu Cổ và Phạm Thư đi sứ nước Tề. Hư cấu như vậy hẳn là phải có lý do.
                     
                    Dễ dàng nhận thấy, đoạn phục bút “20 viên mãnh tướng ... thua tơi tả”, cốt để đề cao anh mã phu Trịnh An Bình. Và qua anh mã phu tài giỏi này, đối chiếu những điều họ nghị luận với nhau trong vấn đề “sang Tề” hay “về Nguỵ”, để khắc hoạ ... người xa phu Phạm Thư vậy.
                     
                    Tóm lại, việc cho Trịnh An Bình xuất hiện sớm, cũng như việc phục bút “20 viên mãnh tướng ... đại bại” chỉ nhằm một mục tiêu là giới thiệu các nhân vật chính qua hành động cụ thể mà thôi. Đó cũng chính là một kỹ xảo điện ảnh vậy.
                     
                    H7C
                     
                    oOo
                     
                    HSN - Đôi điều nói thêm về 6 câu thơ (131-136) trong đoạn 2 :
                     
                    CUỘC CỜ Ở NƯỚC TỀ
                     
                    Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
                    Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
                    Sắp bày địa võng thiên la
                    Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông
                    Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
                    Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi (136)
                     
                    ***Lúc ban đầu , 6 câu này được viết như sau :
                     
                    Tu Cổ ba thứ mất quân (131)
                    Phạm Thư ra trận lại giành tiên cơ
                    Thế như bão táp mưa sa
                    Pháo đầu trực chiến, mã hà giáp công
                    Thông xe tạo thế thượng phong
                    Tốt đầu xung trận khó mong vãn hồi (136)
                     
                    ***Khi bản UHPT có 6 câu ấy đến tay bác Bảy H7C Hồng Thất Công, bác Bảy đã cho ý kiến như thế này, HSN xin trích nguyên văn để các bạn đọc chơi cho vui :
                     
                    “Sĩ Nguyên ạ,
                     
                    Bốn câu ấy (133-136) có thể nói là cực hay, mà đồng thời cũng là ... cực dở !
                     
                    -Cực hay vì chỉ trong 4 câu đơn sơ ấy, cả tứ đẳng liên quân (Xe-Pháo-Mã-Tốt) đều có mặt, mỗi quân phô diễn một thao tác riêng biệt, mang đủ các thuộc tính đặc trưng của chúng (Pháo đầu công chính diện, mã bàn hà trợ chiến, thông xe liên hoàn, tốt đầu độ hà xung kích), lại nói lên được thế cờ áp đảo (bão táp mưa sa, giành thượng phong) khiến cho cục diện bàn cờ không thể đảo ngược.
                    Nói tóm lại là chỉ qua 4 câu ấy thôi, người biết đánh cờ có thể hình dung ra được cả một bàn cờ, cả một thế trận vậy. Nói rằng 4 câu ấy cực hay là vì thế.
                     
                    -Nhưng 4 câu ấy cũng ... cực dở, vì sao chú Nguyên có biết không ? Có lẽ chú đã sơ ý quên mất một điều là bối cảnh cuộc cờ ấy thuộc thời Xuân thu. Cờ thì lúc ấy đã có rồi, nhưng cờ vây thịnh hành, phổ biến, được ưa chuộng nhiều hơn cờ tướng, đặc biệt là ở trong cung đình.
                     
                    Cờ vây (Vi kỳ) là loại cờ trong đó bàn cờ có 19 đường ngang, 19 đường dọc, không có sông ở giữa, quân hai bên vây bủa, tiêu diệt lẫn nhau, hình thế giống như một cuộc tranh giành giữa 2 lực lượng của cùng một nước
                     
                    Cờ tướng (Tượng kỳ) là loại cờ trong đó có 9 đường ngang, 9 đường dọc, ở giữa có một giải phân cách 2 nước, gọi là sông, hình thế cuộc cờ này giống như cuộc chiến tranh giữa 2 nước vậy.
                     
                    Thời Xuân thu thì cờ vây thịnh hành hơn cờ tướng (trái ngược với bây giờ : cờ tướng ưu thế, còn cờ vây gần như đã bị quên lãng hoàn toàn), do đó cuộc cờ trong truyện bàn đến dứt khoát phải là cờ vây (không có sông, không có các quân tứ đẳng chuyên biệt). Như vậy nói Xe pháo mã tốt là ... cực dở, cho mã lên ... hà lại càng thêm dở !
                     
                    Hơn nữa, trong thực tế lịch sử, đến thế kỷ thứ 13, Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân mới là người đầu tiên sử dụng đến PHÁO. Khái niệm Pháo trong bàn cờ tướng không thể có trước thực tế của xã hội được. Theo lịch sử môn cờ tướng, thì trước kia chỉ có những quân Xe Mã Tốt Thuyền... Mãi đến triều Minh, quân Pháo mới được khai sinh, thêm vào bàn cờ. Và những thế trận nổi tiếng như Bình phong mã, Pháo đầu (Ngũ thất pháo), Liên hoàn giáp mã tấn trung binh, Thuận pháo, chỉ được triển khai rầm rộ từ thời Minh, Thanh mà thôi.
                     
                    Cho Phạm Thư đánh cờ tướng, đánh trận Pháo đầu, tấn trung binh ... e rằng ... sai lầm nghiêm trọng đó chú Nguyên ạ .....”
                     
                    Đọc những lời bình ấy của bác Bảy, HSN quả thật đã toát mồ hôi lạnh. Nhận xét đúng quá. Bác Bảy quả là cao kiến ! Còn HSN thì đã sơ xuất, mắc một sai lầm khủng khiếp !
                    Hậu quả đương nhiên là phải mau lẹ chỉnh sửa lại đoạn ấy, cuối cùng thì có 6 câu như bây giờ :
                     
                     
                    Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
                    Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
                    Sắp bày địa võng thiên la
                    Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông
                    Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
                    Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi (136)

                    Nhân đây, HSN xin một lần nữa cám ơn bác Bảy H7C . Cám ơn vô cùng. Cám ơn về mọi điều bác Bảy ạ
                     
                    HSN
                    #10
                      HanSiNguyen 31.05.2008 11:41:28 (permalink)
                      0
                      Chia tay, vua  lại ân cần
                      Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
                      Ban cho hảo tửu trân châu
                      Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
                       
                      -3-
                       
                      KẺ ÁC ĐỒNG MƯU
                       

                       
                      Ba hôm về đến Ngụy thành
                      Đại phu đến trước sân đình báo công
                      Liên minh, ước đã lập xong (201)
                      Từ nay hai nước dốc lòng giúp nhau
                      Kể ra vấn nạn trước sau
                      Những lời đối đáp vơ vào bản thân
                      Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần
                      Không làm xấu mặt quả nhân xứ người
                      Tài như khanh, chẳng mấy ai
                      Cố công ra sức vun bồi quốc gia
                      Nay ban gấm vóc ngọc ngà
                      Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”


                      Tu Cổ hết sức vui mừng (211)
                      Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy
                      Ngụy Tề tướng quốc xưa nay
                      Nhiều phen bênh vực, bao ngày chở che
                      Quyền to, lại rất khắt khe
                      Lễ không ra lễ, có bề hại thân
                      Thầy trò một lũ quyền thần
                      Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè
                      Mặc cho nhà nước suy vi
                      Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều
                      Sinh linh nhà dột cột xiêu (221)
                      Thiên tai nhân họa đủ điều thê lương
                      Cùng đinh trăm họ thảm thương
                      Riêng quan tướng quốc trọn đường vui say.
                      Bấy giờ Tu Cổ ghen tài
                      Nhớ khi mất mặt trước ngai vua Tề
                      Thẹn mình thua gã đánh xe
                      Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn
                      Nghĩ ra kế độc mưu gian
                      Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người
                      Vòng ngà xuyến ngọc mười đôi (231)
                      Rượu ngon, gấm tốt, vàng mười trăm cân
                      Trước là tỏ dạ báo ân
                      Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi
                      Sau là nhân lúc vắng người
                      Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :
                      -“Chê bai tướng quốc ngu si
                      Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm
                      Tài năng như trẻ lên năm
                      Hung hăng, thô lỗ, cuồng dâm, ác tà
                      Một tội này, đã khó tha (241)
                      Lại còn thêm tội gian ngoa thông Tề
                      Bạc vàng chất đống đầy xe
                      Nhận nhiều châu báu toan bề vinh thân
                      Bao nhiêu bí mật quốc quân
                      Sõng tay bán rẻ chiếm phần lợi tư
                      Quan binh trông thấy ngờ ngờ
                      Rành rành tang chứng, sờ sờ điêu ngoa
                      Không tin cứ việc xét tra”
                      Ngụy Tề nghe nói thoắt đà ứa gan
                      Lửa đâu thiêu đốt tâm can (251)
                      Đùng đùng nổi giận, oang oang thét gầm
                      Định cho bắt đứa ác nhân
                      Đem về xử tội trước sân lôi đình
                      Tu Cổ vội vã tấu trình :
                      -“Việc này việc nhỏ, nhục hình là xong
                      Tối nay mở tiệc mừng công
                      Bá quan văn võ tiệc tùng vui chơi
                      Phạm Thư tất đón đưa tôi
                      Bấy giờ giữa tiệc đông người khảo tra
                      Trước là diệt đứa gian tà (261)
                      Sau là đủ mặt bách gia trông vào
                      Một đòn dằn mặt vương hầu
                      Trị cho tiệt giống cơ cầu dèm pha
                      Từ nay ai dám khinh ta ?”
                      Ngụy Tề đắc chí khen là mưu cao
                      Lệnh cho sắp đặt trước sau
                      Trong lo yến tiệc, ngoài mau đi mời
                      Lại cho chuẩn bị đòn roi
                      Gông cùm, kìm kẹp, nước sôi, lửa hồng
                      Dự mưu trị đứa gian hùng (271)
                      Để cho những kẻ hai lòng khiếp oai.


                      Nói về họ Phạm thảo ngay
                      Đâu ngờ lửa bén chân mày mà lo
                      Ung dung đọc sách ngâm thơ
                      Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng
                      Bỗng dưng cảm thấy hoang mang
                      Tâm tư xao xuyến, can tràng phân vân
                      Sục sôi như nước đến chân
                      Mắt môi bứt rứt, tinh thần nôn nao
                      Đi ra thôi lại đi vào (281)
                      Lòng buồn man mác, dạ sầu miên man
                      Tay nâng chén rượu thở than
                      Môi khô miệng đắng, tiếng đàn ngẩn ngơ
                      Tai to vạ lớn sẵn chờ
                      Lá vàng trước gió đong đưa phương nào ?
                      Lục bình trôi dạt về đâu ?
                      Ai hay gió thảm mưa sầu chờ ai ?
                      ................................................. [Còn tiếp]
                      #11
                        HanSiNguyen 31.05.2008 11:45:52 (permalink)
                        0
                        GIẢN CHÚ  Đoạn 3, trang 23-26
                        KẺ ÁC ĐỒNG MƯU
                        (by Nguyễn Phú)

                         
                        1-Hiền thần : bề tôi hiền, giỏi, có tài có đức.
                        2-Quả nhân : (cũng như “quả vương”, “cô gia”) đều là những tiếng tự xưng một cách nhún nhường, khiêm tốn của vua chúa. Ý nói mình là người kém tài thiếu đức nên lúc nào cũng hiu quạnh, đơn độc (cô, quả), không có ai giúp đỡ, phò tá.
                        3-Quan thầy : Người đỡ đầu, quan trực tiếp nâng đỡ, che chở.
                        4-Tướng quốc : Chức quan đầu triều thời xưa.
                        Lục quốc (Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tề, Sở) đều gọi là Tướng quốc. Riêng Tần gọi là Thừa tướng. Các chức danh này đều tương đương như “Thủ tướng” ngày nay.
                        5-Quyền thần : bề tôi chuyên quyền, lấn át quyền của vua.
                        6-Suy vi : (cũng như suy vong, suy tàn, suy thoái), càng lúc càng yếu kém dần, thoái hoá dần, dẫn tới sụp đổ.
                        7-Phủ phê : tràn trề, thừa mứa
                        8-Sinh linh : mọi người và mọi con vật, thường được hiểu như “nhân dân thấp cổ bé miệng”
                        9-Thiên tai nhân hoạ :
                        -Thiên tai : tai hoạ trời đem lại (Hạn hán, lũ lụt, bão tố,
                        động đất, dịch bệnh v.v...)
                        -Nhân hoạ : tai hoạ do con người tự gây ra cho mình và đồng lọai (Chiến tranh, phá huỷ môi trường sống ...)
                        10-Thê lương : thảm thiết
                        11-Cùng đinh : (Đinh : người dân, người thanh niên)
                        -Cùng đinh : dân cùng, dân nghèo khổ, hết đường sinh sống
                        -Bạch đinh : người tay trắng, không có phương tiện lao động, sản xuất
                        -Thuế đinh : Thuế đánh theo đầu người
                        -Tráng đinh : thanh niên khoẻ mạnh
                        12-Trước ngai vua Tề : Trước mặt vua quan nước Tề
                        (Ngai : Chiếc ghế vua ngồi).
                        13-Mê mê : Dây dưa không dứt
                        14-“Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người” :
                        (E = sợ, ngại – Toan : toan tính, dự định)
                        Do câu tục ngữ : “Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu” nghĩa là Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình”.
                        “Ngậm máu phun người” có nghĩa là “vu cáo, nói xấu, bày đặt chuyện làm tổn thương người khác”
                        15-Xuyến : loại vòng trang sức, chuyên đeo ở cổ tay, thường là có bản mỏng và dẹp.
                        16-Vàng mười : vàng ròng, vàng nguyên chất, vàng tốt nhất.
                        17-Báo ân : Đền ơn, trả ơn. Những câu tục ngữ liên quan :
                        -Thi ân bất cầu báo : Làm ơn cho người, chẳng mong người đền đáp lại.
                        -Dĩ oán báo ân : Lấy oán trả ơn
                        -Cứu vật vật trả ân; cứu nhân nhân trả oán (ơn, cứu nhơn)
                        18-Hổ ngươi : Xấu hổ, nhục nhã, thẹn thùng.
                        19-Nịnh sàm : nói càn nói bậy, không đúng sự thực, cốt để lấy lòng người trên, quan trên.
                        20-Thông Tề : lén lút liên hệ với nước Tề, làm tay sai cho Tề.
                        21-Ứa gan : Tức căm gan, tức phát điên lên được.
                        22-Tâm can : Tim và gan; nghĩa rộng là “lòng dạ, trong lòng, trong bụng”
                        23-Sân lôi đình : nơi xử án của các quan.
                        24-Nhục hình : hình phạt đánh đập vào xác thịt.
                        25-Khảo tra : dùng hình phạt nặng nề đánh vào thân xác , buộc người ta phải khai, phải cung xưng.
                        26-Bách gia : trăm nhà, nhiều người
                        27-Tiệt : hết sạch, hết nhẵn
                        28-Đắc chí : (cũng như đắc ý) thích chí, khoái ý, vừa lòng
                        29-Đứa gian hùng : kẻ gian dối nhưng khôn ngoan, khéo léo, nhiều mưu mô, dễ dàng qua mắt, đánh lừa được mọi người.
                        30-Kẻ hai lòng : kẻ phản phúc, người “đứng núi này, trông núi nọ”, “ăn cây táo, rào cây sung”
                        31-Thảo ngay : người thẳng thắn, có lòng tốt.
                        32-Lửa bén chân mày : Do câu tục ngữ “Như lửa cháy mày” (Mày : lông mày, chân mày), “Như nước đến chân” (Nước : nước lũ), đều có nghĩa là có việc quan trọng, nguy cấp, gây ra tổn thương nhanh chóng
                        33-Can tràng : gan ruột
                        34-Lục bình : Bèo (xanh), bèo trôi nổi trên sông.
                        #12
                          HanSiNguyen 31.05.2008 11:52:38 (permalink)
                          0
                          LỜI BÀN đoạn 3
                          (by Nguyễn Hồng Bảy H7C)
                           
                          1-Hai cách cư xử
                           
                          Ở đoạn cuối phần 2, khi tiễn chân phái đoàn Nguỵ sứ ra về, vua Tề đã tỏ lòng trân trọng, quý mến Phạm Thư, ban cho nhiều tặng vật
                           
                          Chia tay, vua lại ân cần
                          Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
                          Ban cho hảo tửu trân châu
                          Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
                           
                          Kẻ góp nhiều công lao có tính quyết định đến đại cuộc “liên minh Tề-Nguỵ” là Phạm Thư lại chỉ “Đinh ninh từ tạ ...”, rồi sau đó thì “mau mau đăng trình”
                           
                          Trong khi đó ở đầu phần 3, lúc vua Nguỵ khen thưởng, gã bất tài vô tướng Tu Cổ lại có một cách xử sự khác hẳn.
                          Trước hết là nhận vơ phần công lao của kẻ khác về mình :
                           
                          Kể ra vấn nạn trước sau
                          Những lời đối đáp vơ vào bản thân
                           
                          Kế đến là ưỡn ngực ra, vênh vang nhận lãnh những lời ngợi khen, cũng như những tặng vật quý giá vua Nguỵ hàm hồ ban thưởng :
                           
                          Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần
                          Không làm xấu mặt quả nhân xứ người
                          Tài như khanh, chẳng mấy ai
                          Cố công ra sức vun bồi quốc gia
                          Nay ban gấm vóc ngọc ngà
                          Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”
                          Tu Cổ hết sức vui mừng (211)
                          Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy
                           
                          Quả là hai cách cư xử trái ngược hoàn toàn, việc tuy nhỏ nhưng cũng đủ để phơi trần tâm địa, bản chất hai con người ấy khác nhau, khác nhau xa lắm vậy.
                           
                          2-Tu Cổ : một biểu tượng của kẻ tiểu nhân vô sỉ .
                           
                          Chúng ta hãy điểm qua nhân cách của đại phu Tu Cổ :
                           
                          -Về mặt khả năng : đó là một con người nhạy bén, biết tận dụng kẻ dưới, khai thác rút tỉa lấy những tinh hoa của người ta, mưu ích cho ... bản thân mình ! Qua 2 câu :
                           
                          Đón đưa Tu Cổ đại phu
                          Việc công góp ý, việc tư lo lường (52)”
                           
                          Ta thấy Phạm Thư không chỉ là một gã xa phu đánh xe đưa đón chủ bình thường, mà còn kiêm nhiệm nhiều chức năng lo liệu, kế hoạch, cố vấn cho họ Tu nữa. Hẳn là cái kế hoạch “liên minh Tề Nguỵ” cũng chẳng phải họ Tu đủ tài nghĩ ra đâu !
                          Ngay cả khi đi sứ nước Tề, Tu Cổ cũng không quên đem theo cái gã đánh xe “đa năng, đa nhiệm” ấy
                           
                          Đem theo cả gã xa phu
                          Trước là giong ngựa sau nhờ trí  mưu (88)
                           
                          -Về cá tính riêng, đó là một con người bộp chộp, nóng nảy, chỉ muốn thành công ngay, điều ấy thể hiện qua cách đánh cờ :
                           
                          Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
                           
                          Khi gặp gian nan, khó khăn thì hoảng hốt, thậm chí tê liệt, hết biết cách đối phó :
                           
                          ........................., sững sờ kinh tâm
                          Mồ hôi Tu Cổ tuôn dầm
                          Rành rành có miệng hóa câm bao giờ (144)
                           
                          -Về bản chất, đó là một kẻ tiểu nhân hèn mọn, ganh hiền ghét ngỏ, ngoài mặt thì ra vẻ tử tế, nhưng trong lòng chất chứa nọc độc, sẵn sàng hại người bằng đủ mọi hình thức :
                           
                          Miệng Cổ không ngớt ngợi khen
                          Lòng Tu đố kỵ ghét ghen chất chồng (58)
                           
                          Thẹn mình thua gã đánh xe
                          Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn
                          Nghĩ ra kế độc mưu gian
                          Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người (230)
                           
                          -Về tâm địa, đó là một kẻ đê tiện, vô sỉ, nhận vơ tranh công của người, đắc chí vênh vang khi được ban thưởng, dẫu rằng bản thân y cũng thừa biết mình chẳng có một chút công cán gì :
                           
                          Kể ra vấn nạn trước sau
                          Những lời đối đáp vơ vào bản thân (204)
                           
                          Tu Cổ hết sức vui mừng
                          Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy (212)
                           
                          -Về hành động : giỏi kéo bè kéo cánh, núp bóng quan thầy, hình thành đảng nịnh, mưu cầu vinh hoa, lợi ích cá nhân, bất chấp cảnh khổ của dân, bất chấp thế suy của nước, lại giỏi tài dèm pha, thóc mách, dựng chuyện ngọt xớt, miệng lưỡi nanh nọc :
                           
                          Thày trò một lũ quyền thần
                          Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè
                          Mặc cho nhà nước suy vi
                          Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều (220)
                           
                          Trước là tỏ dạ báo ân
                          Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi
                          Sau là nhân lúc vắng người
                          Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :
                          -“Chê bai tướng quốc ngu si
                          Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm
                          Tài năng như trẻ lên năm (239)
                           
                          Chúng ta sẽ còn gặp lại nhân vật này ở các chương sau.
                           
                          Tóm lại, đây là một nhân vật xấu xa trong số các nhân vật phản diện (Tu Cổ, Nguỵ Tề, Tuyên thái hậu, Triệu Quát v.v...) nhưng được khắc hoạ rất lý thú vậy.
                          #13
                            HanSiNguyen 03.07.2008 20:32:50 (permalink)
                            0
                            Tai to vạ lớn sẵn chờ
                            Lá vàng trước gió đong đưa phương nào ?
                            Lục bình trôi dạt về đâu ?
                            Ai hay gió thảm mưa sầu chờ ai ?
                             
                               -4-
                             
                            PHẠM THƯ LÂM NẠN
                             

                             
                            Mặt trời vừa xế non Đoài
                            Đại phu ra lệnh đưa ngài nhập cung
                            Đến ngay tướng phủ Ngụy công (291)
                            Để cùng dự tiệc ăn mừng Đông du
                            Lòng ngay chẳng chút ưu tư
                            Phạm Thư vội vã đón đưa tận tình
                            Xe vừa vào đến trung dinh
                            Lệnh cho chờ đợi bên đình phía tây
                            Bá quan văn võ vui vầy
                            Thịt cao lấp núi, rượu đầy loang sông
                            Cười cười nói nói ung dung
                            Ca nhi múa hát, tơ đồng reo vui
                            Rượu say nghiêng ngả đất trời (301)
                            Bấy giờ mới liệu cuộc chơi khảo tù
                            Truyền cho bắt gã xa phu
                            Đưa vào chính điện công tư nghiêm hình
                            Phạm Thư chưa hiểu nội tình
                            Thoắt đà ngã gục tan tành thịt xương
                            Một là phản bội quân vương
                            Hai là cấu kết ngoại bang mưu đồ
                            Ba là tiết lộ quân cơ
                            Bốn là bôi bác nhuốc nhơ triều đình
                            Trăm ngàn con mắt thất kinh (311)
                            Chỉ e liên lụy đến mình mà thôi
                            Hết cùm kẹp, lại đòn roi
                            Máu loang mặt đất chưa vơi nhục hình
                            Phạm Thư vía bạt hồn kinh
                            Nhất thời chỉ biết vật mình kêu than
                            Trời cao cách biệt nhân gian
                            Không bênh không vực để oan người hiền
                            Ngụy Tề càng đánh càng điên
                            Men say càng bốc, ghét ghen càng nồng :
                            -“Đánh cho chết đứa cuồng ngông (321)
                            Đánh cho hết kẻ ám thông nước ngoài
                            Đánh cho tiệt nọc tay sai
                            Đánh cho trắng mắt những loài dèm pha”
                            Bá quan văn võ ngẩn ngơ
                            Hồn ai nấy giữ, cốt ngừa sát thân
                            Tu Cổ bạc ác bất nhân
                            Con ngươi trắng dã, lưỡi lằn đẩy đưa :
                            -“Oán thù chớ để dây dưa
                            Chẳng may cọp dữ Phạm Thư thoát nàn
                            Mưu thần chước quỷ đa đoan, (331)
                            Nhổ cỏ sạch rễ, vạn toàn về sau
                            Một đao giết nó cho mau
                            Dưỡng hổ di họa, ngày sau khó lòng !”
                            Ngụy Tề chẳng nghĩ sâu nông
                            Lệnh :-“Mau đánh chết, quẳng trong nhà cầu
                            Từ quan cho chí lính hầu
                            Luân phiên tiểu tiện lên đầu tội nhân
                            Đáng đời mi, kẻ phản thần
                            Nêu gương cho lũ gian nhân soi vào”
                            Đầy sân vương vãi máu đào (341)
                            Xương tan thịt nát, cuộn vào chiếu thâm
                            Hồn trung phách dũng xa xăm
                            Lững lờ quanh quất, âm thầm phiêu du
                            Vật dơ nước uế tưới vô
                            Giật mình lai tỉnh, giả vờ còn mê
                            Nhục hình chịu đã ê chề
                            Người người trở lại rượu chè đàn ca
                            Quân canh còn chú lính già
                            Phạm Thư khẽ cựa, thiết tha khẩn cầu :
                            -“Ngụy Tề kết oán quá sâu, (351)
                            Một khi tan yến lẽ nào chịu dung
                            Bây giờ nhân lúc tiệc nồng
                            Giúp ta, ta sẽ dốc lòng đền ơn
                            Cứu người nghĩa trọng bằng non
                            Theo chi kẻ ác, tiếng hờn muôn thu
                            Dẫu xây chín dặm phù đồ
                            Không bằng làm phúc cứu cho một người
                            Vào thưa xác đã bốc mùi
                            Xin đem vứt bỏ ra nơi cánh đồng
                            Bấy giờ ta trốn mới xong (361)
                            Tử sinh hai ngả cậy trông nơi người”.
                            Lính già nhân hậu cả đời
                            Yêu người công chính, ghét loài vô lương
                            Oan mờ trời đất thì thương
                            Vâng theo kế ấy trọn đường thiện nhân
                            Ngụy Tề say đã bảy phần
                            Mải vui không nghĩ xa gần thực hư
                            -“Mau mau vứt xác Phạm Thư
                            Xương cho cầy cáo, thịt cho quạ diều
                            Làm gương răn lũ dân điêu (371)
                            Thử xem còn dám làm liều nữa không ?”
                            Được lời như cởi tấc lòng
                            Đưa ngay bó chiếu ra đồng mà quăng
                            Lôi lôi kéo kéo lăng xăng
                            Tay năng hành thiện, lòng vâng ý trời
                            U minh thiên lý rạng ngời
                             Người hiền tất sẽ có người chở che
                            Lính già cuốn chiếu đem đi
                            Trời đêm hiu hắt, đường khuya miệt mài
                            Phạm Thư thoát được nạn tai (381)
                            Dập đầu bái tạ, ơn tày tái sinh :
                            -“Xin người cho biết tính danh
                            Ngày sau báo đáp ân tình hôm nay”
                            -“Sá gì việc cỏn con này
                            Mau đi cho chóng thoát tay Ngụy Tề
                            Kẻ kia vốn dĩ đa nghi
                            Thế nào cũng đuổi cũng truy đến cùng
                            Miễn là thoát được lao lung
                            Ngày sau hội ngộ tương phùng có phen
                            Gọi ta là “Gã lính quèn” (391)
                            Là “Người cuốn chiếu”, họ tên quên rồi !”
                            Chia tay lòng những bồi hồi
                            Miệng hùm hang sói, thương ôi nghĩa tình
                            Mới hay áo rách lòng lành
                            Thẹn thay những kẻ tham danh hại người
                            Lê thân một quãng đường dài
                            Máu ra lai láng, khắp người mỏi mê
                            Kêu to ba tiếng não nề
                            Phách rời thể xác, hồn lìa nhân gian.
                            <bài viết được chỉnh sửa lúc 03.07.2008 23:35:34 bởi HanSiNguyen >
                            #14
                              HanSiNguyen 03.07.2008 20:36:14 (permalink)
                              0
                              GIẢN CHÚ đoạn 4, trang 26-29
                              by NGUYỄN PHÚ

                              PHẠM THƯ LÂM NẠN
                               
                              1-Lâm nạn : vương vòng hoạn nạn, vướng phải tai nạn, mắc nạn
                              2-Non Đoài : Ngọn núi phía Tây
                              3-Nhập cung : Vào cung
                              4-Tướng phủ : Dinh tướng quốc; nghĩa rộng là dinh của một vị tướng nào đó.
                              5-Ưu tư : Lo âu, nghĩ ngợi
                              6-Trung dinh : Dinh giữa, dinh chính, toà nhà chính trong dinh (nghĩa khác : doanh trại chính trong quân)
                              7-Chính điện : Căn phòng chính, nơi dùng để hội họp, hoặc tiếp đãi quan khách, hoặc thờ cúng
                              8-Công tư nghiêm hình : Dùng hình phạt nghiêm khắc trừng trị cả tội công lẫn tội tư
                              9-Nội tình : Những tình tiết bên trong, những điều bí ẩn đàng sau một sự kiện nào đó không được nói ra công khai.
                              10-Ám thông : Lén lút thông đồng, quan hệ với ai.
                              11-Con ngươi trắng dã : Do câu tục ngữ “Mắt trắng, môi thâm” chỉ những người gian giảo độc ác
                              12-Lưỡi lằn đẩy đưa : Do câu tục ngữ “Miệng lằn, lưỡi mối” chỉ những kẻ miệng mồm nanh nọc, hay bày đặt chuyện để hại người.
                              13-Thoát nàn : thoát nạn
                              14-Nhổ cỏ sạch rễ : (Trảm thảo trừ căn) Nhổ cỏ mà không sạch rễ ắt là cỏ sẽ mọc lại, ý nói làm việc gì cũng phải dứt khoát, làm đến nơi đến chốn, không để phát sinh tai họa về sau.
                              15-Dưỡng hổ di họa : Nuôi cọp ắt là để lại tai họa về sau. Khi cọp lớn lên, hoặc khi lành vết thương, cọp sẽ vồ mình.
                              16-Lai tỉnh : tỉnh lại sau một cơn hôn mê.
                              17-Phù đồ : đường nổi, tức là cầu.  Ca dao có câu :
                              “Dù xây chín dặm phù đồ,
                              Không bằng làm phúc cứu cho một người”
                              Xây đền , dựng chùa, làm đường, bắc cầu ... đều là những việc công quả, làm phúc, giúp người, giúp đời. Nhưng không có việc phúc đức nào to lớn bằng việc “cứu người mắc nạn”.
                              18-Nhân hậu : đầy lòng nhân ái (yêu người).
                              19-Công chính : (công bình chính trực) người ngay thẳng, không thiên lệch.
                              20-Vô lương : (vô lương tâm) không có lòng tốt (Lương : tốt)
                              21-Thiện nhân : người ăn ở hiền lành, không gian dối độc ác.
                              22-Dân điêu : những kẻ điêu ngoa, ăn không nói có, ăn đứng dựng ngược, bịa chuyện nói càn nói bậy.
                              23-Năng hành thiện : Thường xuyên làm việc thiện
                              24-U minh thiên lý rạng ngời : Trong cõi u minh, ở chốn tối tăm cũng vẫn có lòng trời – Lẽ trời (“Ở hiền gặp lành” chẳng hạn) vẫn sáng ngời, rạng rỡ ở khắp mọi nơi, kể cả ở những nơi tối tăm đầy bất công áp bức.
                              25-Bái tạ : Vái lạy cám ơn
                              26-Ơn tày tái sinh : Công ơn này sánh bằng công sinh ra một lần nữa. Ví ngang với công cha mẹ sinh thành ra mình.
                              27-Lao lung : (Lao : nhà ngục – Lung : chiếc lồng) : Những chốn giam giữ, nơi cầm tù.
                              28-Hội ngộ tương phùng : gặp lại nhau
                              29-Miệng hùm hang sói, thương ôi nghĩa tình : Nghĩ mà thương cho người lính quèn có nghĩa có tình, sau khi làm phúc cứu người, không hiểu sẽ ra sao khi trở lại dinh Ngụy Tề, là hang ổ của lũ hùm sói hung ác.
                              30-Phách rời thể xác hồn lìa nhân gian : Theo quan niệm xưa, trong mỗi người sống có tồn tại “ba hồn bảy vía (phách)”, giúp cho có tri thức, biết hoạt động, không vô tri bất động như cỏ cây gỗ đá. Cả câu có nghĩa là “chết”, hoặc ít ra thì cũng là “bất tỉnh, hôn mê”
                              #15
                                Thay đổi trang: 12 > | Trang 1 của 2 trang, bài viết từ 1 đến 15 trên tổng số 30 bài trong đề mục
                                Chuyển nhanh đến:

                                Thống kê hiện tại

                                Hiện đang có 0 thành viên và 1 bạn đọc.
                                Kiểu:
                                2000-2024 ASPPlayground.NET Forum Version 3.9