Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Tác giả Bài
HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 22.05.2008 09:42:36
0
==================
HSN-VN Thư Quán
==================

DẤU MÊ SI
LỤC NGÔN THỂ - LƯỠNG ĐẦU XÀ
LIÊN HOÀN KHÚC
BÈO DẠT MÂY TRÔI
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
TIẾNG RU
THƠ MÙA VU LAN
GIÁNG SINH
TÀN ĐÔNG & CHÀO XUÂN
HSN & Friend : CỎ YÊU ƠI
HSN & Friends : BẬU ƠI

oOo

THI PHÁP
Tuyển Tập BLUE and JAZZ
ĐIỆU BUỒN AN TÂY
HSN & FRIENDS
DÂN CA HSN
THÁNH CA HSN

oOo

Trang bạn

NGÀY ẤY (Nguyễn Khánh Linh)
HƯƠNG BƯỞI (Trần Hương Giang)

======================================
XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA
TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA
===========================
 
HÀN SĨ NGUYÊN
 
 
TRUYỆN THƠ
 
THỪA TƯỚNG
ỨNG HẦU
PHẠM THƯ
 

 
BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH
-2002-
 

 

Trích :

Trong Sử Ký, ở đoạn kết bài nói về Phạm Thư – Thái Trạch, Thái sử công Tư Mã Thiên đã ngậm ngùi mà chép lại rằng :
 
Phạm Thư, Thái Trạch người đời đều xếp vào hàng biện sĩ. Có những biện sĩ đi du thuyết chư hầu đến bạc đầu mà vẫn không gặp cơ hội, nguyên do không phải tại mưu kế của họ dở, mà chỉ vì họ không có đủ những điều kiện thuận tiện cần thiết để thành công
Đến như trường hợp của hai ông, đang khi tha hương lữ thứ ở Tần mà nối tiếp nhau làm nên khanh tướng, lập được công danh với thiên hạ, thì đó là nhờ thời thế có khác xưa vậy.Nhưng kẻ sĩ cũng có khi còn nhờ may mắn nữa, kể làm sao xiết những bậc hiền tài giỏi giang chẳng kém hai ông, song chỉ vì không có cơ duyên mà đành thất chí. Tuy nhiên, nếu như hai ông không gặp nhiều nguy khốn thì lấy gì kích thích hai ông.
 

Được lọt vào mắt xanh của Thái sử công Tư Mã Thiên, được đàng hoàng ghi chép vào Sử Ký, chỉ nội một điều ấy thôi cũng đủ cho thấy Phạm Thư quả thật phải là một nhân tài xuất chúng thời Chiến quốc vậy.
Tuy nhiên, cách đánh giá của Tư Mã Thiên về Phạm Thư - theo thiển ý - có đôi  điều cần cân nhắc lại :
 
-Xếp Phạm Thư ngang với Thái Trạch, chung trong nhóm biện sĩ có phải là vội vàng ? Thái Trạch thì đúng là biện sĩ thật. Nhưng Phạm Thư thì còn hơn thế nhiều. Chỉ cần qua Sử
Ký mà thôi, cũng có thể thấy được ông không chỉ là một biện sĩ du thuyết thành công nhờ vào tài năng ăn nói, ứng đáp; mà còn là một lương tướng, một chính khách tài ba, một nhà lãnh đạo sáng suốt, một mưu thần thao lược, một người hoạch định chính xác, và nói cho cùng, là một kẻ sĩ dị kỳ thời Đông Chu liệt quốc vậy.
-Quan điểm cho rằng ông thành công nhờ gặp cơ duyên có nên xem xét lại hay không ? Sang Tần chờ đợi hơn năm, có gặp cơ may nào đâu ? Tự mình viết bức thư  xin yết kiến Tần vương mở đầu cho cả một sự nghiệp phải chăng là may mắn ?
 
Tóm lại, người đời sau có mấy ai biết đến tên tuổi của Phạm Thư ? Phỏng có được bao nhiêu người hiểu biết chính xác về ông ? Vị trí đúng của ông trong lịch sử lẽ ra phải là vị trí của một “lương tướng”. Nếu xếp ông vào hàng biện sĩ, có thể nói là thiệt thòi cho ông lắm vậy.
Phải chăng đó là một trong số những nhìn nhận chưa hợp lẽ công bằng của hậu thế ???
 

HÀN SĨ NGUYÊN
Tháng 7 năm 2000
 
 
<bài viết được chỉnh sửa lúc 13.04.2009 07:14:43 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 22.05.2008 10:12:57
0
LỜI NÓI ĐẦU
 
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯlà một bộ truyện thơ thể Lục bát dài 3380 câu, lúc đầu có tên là “Ứng hầu Phạm Thư”.

-Bộ truyện này là một thành phần trong tủ sách TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA của Hàn Sĩ Nguyên, những khái niệm mà  nhiều người thời nay cho rằng đã cổ hủ, lạc hậu rồi. Nhưng thật ra thì không phải thế. Trong thời buổi đồng tiền trở thành biểu tượng của thành công, kim chỉ nam soi đường, mục đích phải đạt, cứu cánh tìm kiếm, thậm chí trở thành lý tưởng sống, triết lý sống của nhiều người, chính sự “Tranh danh đoạt lợi” đã dẫn tới muôn vàn nhiễu nhương trong xã hội, đưa đẩy biết bao nhiêu số phận con người phải sa vào hố sâu tội lỗi, vực thẳm tội ác (ở khắp mọi nơi) thì những khái niệm về Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa lại càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn bao giờ hết.



-Bộ truyện này ghi lại những chuyện xưa (CỐ SỰ) được chắt lọc TINH HOA từ thời Xuân thu, Chiến quốc, cách nay hơn 2000 năm. Chuyện cũ thì cũ thật, nhưng ôn việc thời xưa để hiểu rõ việc thời nay (ÔN CỐ TRI TÂN), là một việc làm thiết nghĩ không thừa chút nào cả


-Bộ truyện này được thể hiện dưới dạng thơ Lục bát là một thể thơ có tính dân tộc, mang bản sắc thuần tuý Việt Nam, với quá trình hình thành gần 5000 năm. Tuy “già nua” như thế, nhưng có học giả đã từng phát biểu : “LỤC BÁT CÒN, NƯỚC TA CÒN”, câu nói ngắn gọn ấy đủ để nói lên tầm quan trọng của thơ Lục bát vậy. Giá trị vĩnh cửu của thơ Lục bát đã từng được chứng minh qua Truyện Kiều, cũng như qua tập hợp kho tàng ca dao đầy tinh thần nhân bản Việt Nam.
 
Từ “Ứng hầu Phạm Thư” lúc ban đầu, cho đến “Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư” hiện nay, người viết đã mất hơn hai năm trường hiệu đính và chỉnh lý, trong tinh thần lao động cật lực và nghiêm túc.
Hy vọng rằng với cách làm việc tỉ mỉ và thận trọng như thế, bộ truyện này sẽ phần nào là bổ ích và đem lại hứng thú cho người đọc, trong cũng như ngoài nước, bây giờ cũng như sau này.
Các ý kiến trao đổi, đóng góp, nhận xét v.v ... xin gửi về địa chỉ e-mail :
hsn2k3@yahoo.com  HSN xin chân thành lắng nghe.
 
HSN trân trọng
 
 
 
 
 
TỰ NGÔN
Lời tựa cho bản chính thức đã hiệu đính năm 2002
 
oOo
 
Thuở còn thơ ấu, tôi may mắn có một niềm hạnh phúc lớn lao là được bà nội (mù lòa), mẹ và cả chị tôi nữa, ru ngủ bằng truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du, bằng cả một kho ca dao truyền khẩu Việt Nam đầy ắp tình người.



Sau này khi lớn lên, khi va chạm, lăn lộn với đời, khi phải nếm trải những cay đắng xót xa của tình đời đen bạc, những lời ru thời thơ ấu ấy vẫn lắng đọng mãi trong tôi, giúp tôi vơi đi nỗi thống khổ, sự cô đơn, động viên tôi kiên trì đi tiếp, đi mãi trên đường ngay lối thẳng
.
Những lời thơ sang sảng của Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị chẳng khác nào kim chỉ nam soi đường. Những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa của Trần Bình Trọng, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Thủ Khoa Huân, Hồ Huân Nghiệp, Trương Định, v.v… vẫn còn đó chói ngời rạng rỡ trong lịch sử Việt Nam.


Nhìn sang lịch sử Trung Quốc, những tấm gương anh hùng cái thế, đạo nghĩa ngất trời của Nhạc Phi, Văn Thiên Tường thời Nam Tống, Tiên Trẩn thời Xuân Thu, Phạm Thư thời Chiến Quốc và nhiều người khác nữa, lúc nào cũng cháy bỏng trong tôi.

Hận là tài mình kém cỏi, không phát tiết ra thành thơ được.


Mẹ tôi nay đã già rồi. Bây giờ đến lượt bà chỉ thích nghe đọc thơ. Đọc hết thơ cổ cho bà nghe, cạn nguồn rồi, chẳng còn biết làm sao, thôi thì chẳng kể sức mình bất khả, chẳng nệ thơ mình vụng về, mộc mạc, chân chất, đời thường, tôi đành mạo muội vừa viết vừa đọc cho bà nghe … Mỗi ngày non một trăm câu. Có khi cao hứng được hơn hai trăm câu. Quay đi quay lại hai mươi bảy ngày thấm thoắt, thế là hình thành nên pho truyện thơ ỨNG HẦU PHẠM THƯ 3380 câu lục bát.


Tiếp theo đó là cả một quá trình chỉnh lý và hiệu đính dài đăng đẳng suốt hai năm trường, lần dò từng câu, chỉnh sửa từng chữ, để cuối cùng có được THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ như hiện nay. Nhưng đây đó chắc hẳn vẫn không tránh khỏi ít nhiều thiếu sót, khiếm khuyết.


Với mọi người, có thể đây chỉ là một pho truyện bình thường, hoặc tầm thường thôi, thậm chí còn có thể bị quy là “cổ hủ, lạc hậu, hay lỗi thời” nữa cũng không chừng. Nhưng với riêng tôi, mãi mãi tập thơ này đã trở thành một kỷ niệm không thể nào quên.


Trân trọng cám ơn các thi hữu đã hết lòng động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi hoàn tất việc hình thành tập thơ này.
Rất tiếc là trong lần ra mắt đầu tiên, vì muốn cho khuôn khổ sách gọn nhẹ, tôi đã không thể cho in kèm những trang chú giải về nhân danh, địa danh, điển tích và bình chú của bạn bè, thân hữu xa gần. Hy vọng rằng trong những lần xuất bản kế tiếp, tôi sẽ có thể khắc phục được các thiếu sót vừa nêu.


Tôi xin mượn 4 câu thơ cuối truyện Phạm Thư để kết thúc những lời TỰ NGÔN này :
 
Chuyện xưa nhân đọc mà chơi
Diễn thành thơ, cốt giúp vui mẹ già
 Người sau nếu có xem qua
Không chê thơ vụng - Ấy là tri ân.
 
Không chê thơ vụng, ấy là tôi đã tri ân nhiều lắm rồi vậy

Tháng 7 năm 2002
Sài Gòn
HÀN SĨ NGUYÊN

<bài viết được chỉnh sửa lúc 22.05.2008 10:25:51 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 22.05.2008 10:20:09
0
GIỚI THIỆU
NHÂN VẬT PHẠM THƯ
TRONG CỔ SỬ TRUNG QUỐC
 


 
Phạm Thư là một nhân vật có thật cuối thời Chiến quốc, xuất thân hàn vi ở nước Ngụy, một trong ba nước Tam Tấn (Triệu, Hàn, Ngụy), trải qua bao gian lao cực khổ sau làm quan đến mức tột đỉnh : thừa tướng nước Tần, nắm quyền sinh sát ở một cường quốc có thế và lực mạnh nhất thời hậu kỳ Chiến quốc, đất phong vạn dặm, tước là Ứng hầu. Phạm Thư chính là một trong số những quan thừa tướng nổi tiếng, có nhiều đóng góp xuất sắc cho nước Tần (bao gồm Bá Lý Hề, Kiển Thúc, Thương Ưởng, Phạm Thư, Lã Bất Vi, Lý Tư…). Ông đã góp phần xây dựng một nước Tần, vốn dĩ bị coi là man di mọi rợ ở phía Tây Trung Quốc, trở thành một quốc gia hùng mạnh, tạo tiền đề vững chắc cho Tần Thủy hoàng gồm thâu lục quốc sau này.
 
Sử Ký Tư Mã Thiên – một pho chính sử đồ sộ và có uy tín thời Tây Hán – đã ghi chép sơ lược nhưng khá đầy đủ, rõ ràng về nhân vật này. Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa cũng không bỏ sót. Và còn nhiều thư tịch cổ khác như Chiến quốc sách, Cổ học tinh hoa, Lã thị Xuân thu v. v… đó đây đều có ít nhiều những dòng đề cập đến Phạm Thư.
Theo Sử Ký Tư Mã Thiên, Phạm Thư có tên gọi là Phạm Tuy, cũng được gọi là Phạm Chuy, tự là Phạm Thúc,
 
… người nước Ngụy. Nhà nghèo…, khởi đầu thờ quan trung đại phu Tu Cổ. Tu Cổ vì Ngụy Chiêu vương mà đi sứ sang Tề, Phạm Thư đi theo….
Tề Tương vương biết Thư có tài mới sai người đem cho vàng lụa. Thư từ tạ không dám nhận. Tu Cổ biết chuyện giận lắm …về nước… đem việc trình lên quan tướng quốc nước Ngụy tên gọi là Ngụy Tề.  Ngụy Tề cả giận, …. sai đánh gãy cả xương sườn, gãy cả răng. Thư giả chết … , xác được bó chiếu quẳng vào cầu tiêu, cho quan khách say rượu tiểu tiện bừa vào, cốt làm nhục Phạm Thư để răn đe kẻ khác…..
Người coi nhà cầu xin phép đem cái thây ma bó chiếu ra đồng vứt đi. Đang lúc say rượu, Ngụy Tề vội vàng cho phép. Thế là Phạm Thư ra thoát. Một người nước Ngụy tên là Trịnh An Bình hay tin ấy bèn đem Thư đi trốn, ở chui, ở rúc, đổi tên là Trương Lộc...."

Sau đó, nhân dịp yết giả Vương Kê nước Tần đi sứ sang Ngụy, Phạm Thư cùng với Trịnh An Bình theo Vương Kê sang Tần, tạm làm tân khách hơn một năm trời, chờ đợi mỏi mòn cũng vẫn không có cơ hội nào yết kiến Tần Chiêu Tương vương……..
 
Sau nhân dịp thừa tướng Nhương hầu Ngụy Nhiễm nước Tần chuẩn bị đánh Tề, Phạm Thư mới dâng thư lên Tần vương xin vào ra mắt. Bức thư này xưa nay vẫn được đánh giá như một áng cổ văn xuất sắc, có sức mạnh lay động lòng người. Kết quả là Tần vương cho kiến giá. Kể từ sau buổi hội ngộ ấy, Tần vương xem Phạm Thư như kẻ bề tôi thân tín, đối đãi như bậc thầy, bàn gì cũng nghe, kế gì cũng theo.
 
Chỉ trong 3 năm ngắn ngủi, Phạm Thư hoàn thành việc củng cố quyền chính nước Tần, dẹp yên nghịch đảng, được phong làm thừa tướng, ở ngôi Ứng hầu, đất phong vạn dặm ở Ứng thành. Trong mười hai năm tiếp đó, Phạm Thư đề ra chính sách “Tàm thực” (tằm ăn dâu), chủ trương thân nước xa (Yên, Tề, Sở), đánh nước gần (Ngụy, Hàn, Triệu). Mỗi lần xuất quân, là mỗi lần lấn chiếm đất đai. Và đặc biệt là  đất chiếm đến đâu, bố trí dân định canh, định cư đến đấy… khiến hình thành nên thế “địch gầy ta béo”.

 
Với chiến lược xuất sắc, phù hợp với tình thế bảy nước lúc bấy giờ của Phạm Thư, cộng thêm tài điều binh khiển tướng như thần của Võ An quân Bạch Khởi – một danh tướng xuất sắc bậc nhất thời Xuân thu Chiến quốc, quân Tần thắng như chẻ tre, mà tiêu biểu nhất là trận quyết chiến chiến lược ở Trường Bình, nơi đó 30 vạn quân Tần của Bạch Khởi đã bao vây, cô lập, tiêu diệt, và bức hàng hơn 45 vạn liên quân Hàn Triệu. Một trận thắng không chỉ dũng mãnh, oai hùng, oanh liệt, qui mô lớn nhất thời Chiến quốc mà còn tiêu biểu cho cả mưu cơ xuất chúng, hoạch định thần kỳ, qua một loạt kỳ mưu vô tiền khoáng hậu như : Liên hoàn kế, Khổ nhục kế, Phản gián, Nghi binh, cũng như kỳ trận Thập diện mai phục, dồn nguyên soái nước Triệu là Triệu Quát (con trai danh tướng Mã Phục quân Triệu Xa) lâm vào đất chết.
 
Sau trận Trường Bình, uy thế nước Tần lên đến tột đỉnh, tưởng chừng như chỉ cất tay một cái là có thể bắt Triệu quy phục, cất tay cái nữa là có thể gồm thâu thiên hạ quy về một mối. Thế nhưng việc đời không phải dễ dàng như thế, liên tiếp nhiều sự cố quan trọng xảy ra : Bạch Khởi tiêu diệt 40 vạn hàng binh nước Triệu, khiến cho cả nước Triệu căm phẫn, thà chết cũng quyết chống lại, không chịu theo Tần. Rồi lục quốc liên thông giúp nhau chống Tần. Tần vương nghi kỵ giết Bạch Khởi. Trịnh An Bình thua trận dưới tay tướng Ngụy là Tín Lăng quân. Rồi Phạm Thư cáo quan. Thái Trạch thay chân làm thừa tướng. Chưa trọn 3 năm, Tần Chiêu Tương vương băng hà. Tình thế thiên hạ tiếp tục chia năm xẻ bảy thêm nhiều năm nữa. Cuối cùng phải đến Tần Thuỷ hoàng mới hoàn thành việc nhất thống thiên hạ.
 
Trong tình thế loạn lạc liên miên ấy, một con người xuất thân hàn vi, không có thế lực riêng tư nào ủng hộ, chỉ trông cậy hoàn toàn vào tài năng cá nhân như Phạm Thư trước sau đã có thể nắm gọn quyền chính nước Tần trong mười lăm năm (Từ năm thứ 36 đến năm thứ 51 đời Tần Chiêu Tương vương). Mười lăm năm chỉ dưới một người và trên muôn người. Thật là một kỳ tích dị thường, thế gian xưa nay hiếm !
 
Về mặt con người, Sử Ký Tư Mã Thiên tuy ngắn gọn, súc tích, cũng đủ cho thấy một Phạm Thư lắm mưu nhiều trí, nhìn xa trông rộng, ơn đền oán trả rạch ròi, phân minh. Và cuối cùng, ở độ tuổi năm mươi, Phạm Thư đã biết thức thời cáo quan quy ẩn, tránh được cái vạ sát thân mà những người tiền nhiệm trước kia, cũng như kế nhiệm sau này đều không tránh khỏi (Thương Ưởng bị hành hình phân thây giữa chợ, Thái Trạch phải chạy trốn sang nước khác, Lã Bất Vi cay đắng nhận lấy bầu rượu độc …).
Có đối chiếu như thế mới thấy được sự cao minh, sáng suốt của Phạm Thư vậy.
 
Trong Sử Ký, ở đoạn kết bài nói về Phạm Thư – Thái Trạch, Thái sử công Tư Mã Thiên đã ngậm ngùi mà chép lại rằng :
 
Phạm Thư, Thái Trạch người đời đều xếp vào hàng biện sĩ. Có những biện sĩ đi du thuyết chư hầu đến bạc đầu mà vẫn không gặp cơ hội, nguyên do không phải tại mưu kế của họ dở, mà chỉ vì họ không có đủ những điều kiện thuận tiện cần thiết để thành công
Đến như trường hợp của hai ông, đang khi tha hương lữ thứ ở Tần mà nối tiếp nhau làm nên khanh tướng, lập được công danh với thiên hạ, thì đó là nhờ thời thế có khác xưa vậy.Nhưng kẻ sĩ cũng có khi còn nhờ may mắn nữa, kể làm sao xiết những bậc hiền tài giỏi giang chẳng kém hai ông, song chỉ vì không có cơ duyên mà đành thất chí. Tuy nhiên, nếu như hai ông không gặp nhiều nguy khốn thì lấy gì kích thích hai ông.
 
Được lọt vào mắt xanh của Thái sử công Tư Mã Thiên, được đàng hoàng ghi chép vào Sử Ký, chỉ nội một điều ấy thôi cũng đủ cho thấy Phạm Thư quả thật phải là một nhân tài xuất chúng thời Chiến quốc vậy.
Tuy nhiên, cách đánh giá của Tư Mã Thiên về Phạm Thư - theo thiển ý - có đôi  điều cần cân nhắc lại :
 
-Xếp Phạm Thư ngang với Thái Trạch, chung trong nhóm biện sĩ có phải là vội vàng ? Thái Trạch thì đúng là biện sĩ thật. Nhưng Phạm Thư thì còn hơn thế nhiều. Chỉ cần qua Sử
Ký mà thôi, cũng có thể thấy được ông không chỉ là một biện sĩ du thuyết thành công nhờ vào tài năng ăn nói, ứng đáp; mà còn là một lương tướng, một chính khách tài ba, một nhà lãnh đạo sáng suốt, một mưu thần thao lược, một người hoạch định chính xác, và nói cho cùng, là một kẻ sĩ dị kỳ thời Đông Chu liệt quốc vậy.
-Quan điểm cho rằng ông thành công nhờ gặp cơ duyên có nên xem xét lại hay không ? Sang Tần chờ đợi hơn năm, có gặp cơ may nào đâu ? Tự mình viết bức thư  xin yết kiến Tần vương mở đầu cho cả một sự nghiệp phải chăng là may mắn ?
 
Tóm lại, người đời sau có mấy ai biết đến tên tuổi của Phạm Thư ? Phỏng có được bao nhiêu người hiểu biết chính xác về ông ? Vị trí đúng của ông trong lịch sử lẽ ra phải là vị trí của một “lương tướng”. Nếu xếp ông vào hàng biện sĩ, có thể nói là thiệt thòi cho ông lắm vậy.
Phải chăng đó là một trong số những nhìn nhận chưa hợp lẽ công bằng của hậu thế ???
 
HÀN SĨ NGUYÊN
Tháng 7 năm 2000
<bài viết được chỉnh sửa lúc 24.05.2008 09:18:50 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.05.2008 08:47:57
0
PHẠM THƯ QUA NGÒI BÚT HÀN SĨ NGUYÊN
-Bài của nhà văn VŨ HẠNH-
 

 
Trong cổ sử Trung Quốc, Phạm Thư chưa hẳn đã là một con người hoàn thiện, cũng tích oán cưu hờn, cũng ơn đền oán trả, cũng phạm nhiều sai lầm trong cuộc sống riêng tư cá nhân, cũng như trong hoạt động chính trị của nước Tần, cũng lo toan cho địa vị cá nhân, cũng tham luyến quyền hành, cũng đe nẹt hàn sĩ. Những điều ấy được ghi chép tỏ tường trong Sử Ký Tư Mã Thiên, phần Liệt truyện, đoạn nói về các biện sĩ “Phạm Thư -Thái Trạch”.
 
Dẫn xuất từ nguồn tư liệu cổ ít ỏi ấy, nhà giáo kiêm nhà thơ Việt Nam Hàn Sĩ Nguyên qua tác phẩm ỨNG HẦU PHẠM THƯ, có thể nói đã viết lại, đã vẽ lại, đã hư cấu, hình thành nên một Phạm Thư mới, khiến cho một thừa tuớng Phạm Thư thời xa xưa, vốn còn xa lạ với công chúng, xuất hiện trước mắt chúng ta như một nhân vật phi thường. Đó là một con người bình dị, có trí năng thông tuệ tuyệt vời, đã quán triệt được lẽ biện chứng trong cuộc sống của thời tao loạn, để mà hướng sự việc tiếp diễn theo mức tối ưu, đó cũng còn là một con người đạo đức vô song với niềm hiếu thảo,với nghĩa thủy chung, cư xử ân oán phân minh, nhân nghĩa vẹn toàn. Ở thời điểm tột đỉnh vinh quang, con người ấy vẫn không ham địa vị, không mê nữ sắc, không hề trở mặt quay lưng với người cùng khổ, với kẻ vô danh ngày xưa có ơn cứu mạng cho mình; để rồi đem tấm lòng biết ơn đáp đền trong muôn một, và cũng từ con người rất khốn khổ ấy mà Phạm Thư đã nghe ra, đã hiểu thấu tiếng nói của lương tri. Chu toàn đạo nghĩa, trọn vẹn ân tình, con người ấy còn biết tiến, biết thoái, quả là một sự kiện nhân sinh hiếm thấy xưa nay, đồng thời đó còn là mẫu mực của một đạo lý sống có thể truyền lưu cho đến muôn đời.
Phạm Thư là sản phẩm của một thời tao loạn, nhưng chính qua thời tao loạn ấy mà đức và tài của nhân vật này bộc lộ hết được tinh hoa. Có lẽ càng suy gẫm thêm, mỗi người trong chúng ta còn có thể tìm thấy được qua nhân vật này những điều kỳ thú cho một lẽ sống nhiệm mầu.
 
Đem những người xưa tiêu biểu ra viết thành thơ lục bát hơn ba ngàn câu, để mà hoằng dương đạo nghĩa, phổ biến nhân luân, HÀN SĨ NGUYÊN đã lặng lẽ làm một công việc ít thấy giữa thời buổi kinh tế thị trường đầy cảnh bon chen trục lợi, đầy những mưu toan thực dụng, đầy những tính toán đảo điên. Nhưng nét kỳ diệu của cuộc đời này vẫn tồn tại đó, qua tập truyện thơ Ứng Hầu Phạm Thư : Một vị thừa tướng từ thời cổ sử xa xôi mờ mịt của nước Trung Hoa giữa buổi loạn ly, đã trở lại như một con người hiện thực giữa cõi đời này .
 
Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả tập truyện thơ Ứng Hầu Phạm Thư, một sáng tác mà nhà giáo kiêm nhà thơ Việt Nam - ông HÀN SĨ NGUYÊN – đã đem những lời thơ hoa gấm dệt nên một áng diễn ca đầy ắp tình người.
 
Nhà văn Vũ Hạnh
12/2000 

 

 
============================
DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO
============================
 
1-Sử ký Tư Mã Thiên - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
2-Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa - Bản dịch của Nguyễn Đỗ Mục
3-Cổ học tinh hoa - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
4-Chiến quốc sách - Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
5-Lã thị Xuân Thu
6-Binh pháp Tôn Vũ tử
 
==========================
 
NỘI DUNG
 
“Thừa tướng Ứng hầu Phạm Thư” gồm có 30 phân đoạn :
 
1-Phạm Thư thuở hàn vi
2-Tu Cổ đi sứ nước Tề
3-Kẻ ác đồng mưu
4-Phạm Thư lâm nạn
5-Tiếng đàn rừng mai
6-Ân tình rừng mai
7-Vương Kê cầu hiền
8-Phạm Thư sang Tần
9-Tần Chiêu Tương vương
10-Phạm Thư biểu
11-Kiến giá Tần vương
12-An Bình bắt Ngụy Xú Phu
13-Bãi chức Nhương hầu
14-Thừa tướng Phạm Thư
15-Về cố hương
16-Thiên võng khôi khôi
17-Phạm Thư trả thù Tu Cổ
18-Ngụy vương hiến công chúa
19-Trảm Ngụy Tề
20-Gặp lại người xưa
21-Đánh Hàn chiếm Huỳnh Dương
22-Phùng Đình hiến Thượng Đảng
23-Triệu Hiếu Thành vương
24-Phản gián khổ nhục liên hoàn kế
25-Trận Trường Bình
26-Bạch Khởi diệt hàng binh
27-Tần vương giết Võ An quân
28-Tống biệt hành
29-Phạm Thư cáo quan
30-Tiêu dao Ứng thành

 

<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 09:50:11 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.05.2008 09:00:51
0
XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA
TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA
===========================

HÀN SĨ NGUYÊN


TRUYỆN THƠ

THỪA TƯỚNG
ỨNG HẦU
PHẠM THƯ



BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH
-2002-
 


01. Phạm Thư thuở hàn vi

Cuối thời Chiến quốc, Xuân thu (1)
Sinh linh đồ thán, Đông Chu suy tàn
Tam Tấn có Triệu, Nguỵ, Hàn
Tần, Tề, Yên, Sở qua can tranh cường
Nguỵ đô đóng ở Đại Lương
Chiêu vương trị quốc, nhiễu nhương binh tình
Thế nước suy yếu chông chênh
Biên thuỳ bỏ ngỏ, kinh thành thiên di
Càn qua quét lại lắm khi
Chính hư binh nhược, cận kề bại vong
Họ Phạm giúp nước dày công (11)
Đời đời khanh tướng, nối dòng vương tôn
Phù vân khó nỗi trường tồn
Tổ tiên hưng vượng, cháu con điêu tàn.
Phạm Thư xuất xứ cơ hàn
Mẹ cha mất sớm, họ hàng lìa xa
Bọt bèo trôi nổi la đà
Quản chi cực nhọc, miễn là tồn sinh
Thiên tư vốn dĩ thông minh
Chuyên cần học tập, pháp binh ghi lòng
Bách gia chư tử lão thông (21)
Thuyết Nan cố sự ngược dòng mà chơi
Thoắt đà mười tám năm trời
Nên trang bản lãnh, ra người tài hoa
Lòng riêng, riêng những ước mơ
Đem tài Ninh Thích giúp cho Tề Hoàn
Công cha nghĩa mẹ chu toàn
Trung quân báo quốc trị an nước nhà
Quần bô áo vải xót xa
Không người tiến dẫn khó mà nên danh
Lược thao xếp xó đã đành (31)
Trước thềm Tu Cổ, hạ mình đánh xe
Ngày ngày hai buổi đi về
Mơ phá Thành Bộc, tưởng truy Hào Đình
Vẫy vùng Nam quận, Yên Kinh
Khi an Cự Lộc, khi bình Hàm Dương
Ngựa xe rong ruổi sa trường
Chí như Tôn tử, tài dường Ngô quân
Đêm khuya mơ tuởng Tô Tần
Uốn ba tấc lưỡi canh tân nước nhà
Tai nghe gà gáy xa xa (41)
Giật mình tỉnh giấc, xó nhà nằm co
Một mình một bóng bơ vơ
Bốn bề cô quạnh, thương cho nỗi đời
Tài năng chuyển đất rung trời
Thời cơ không có, sức người mong manh
Ngư ông sông Vị nương mình
Lược thao rèn giũa, pháp binh trau dồi
Thu qua, Đông lại, Xuân trôi
Ba năm ròng rã làm người xa phu
Đón đưa Tu Cổ đại phu (51)
Việc công góp ý, việc tư lo lường
Giang hồ hào sĩ tứ phương
Tình như thủ túc, lễ nhường hàn nho
Khi vui khúc nhạc, cuộc cờ
Khi buồn chén rượu, bài thơ giải phiền
Miệng Cổ không ngớt ngợi khen
Lòng Tu đố kỵ, ghét ghen chất chồng
Phạm Thư tận nghĩa tận trung
Nghĩ mình ăn quả, cố công vun bồi
Cúc cung tận tuỵ ở đời (61)
Biết đâu lòng dạ con người hiểm sâu.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 09:52:49 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.05.2008 09:09:52
0
GIẢN CHÚ đọan 1 (by NGUYỄN PHÚ)
 
1-Thuở hàn vi : thời còn nghèo khổ, lúc chưa có công danh sự nghiệp.

2-Chu : Một vương triều ở Trung quốc thời cổ đại, sau nhà Ân (Thương). Khởi đầu từ lúc Chu Võ vương (Cơ Phát) đem quân Tây kỳ qua bến Mạnh Tân diệt Trụ vương. Triều đại nhà Chu gồm 2 thời kỳ :

-Thời Tây Chu : Từ Võ vương đến U vương , trải qua gần 400 năm. Đóng đô ở Tây kỳ. Thời đại này có thể nói là thời thịnh trị. Đến đời Chu U vương, vua này say đắm mỹ nhân Bao Tự khiến sinh ra loạn lạc triền miên, sau phải dời đô về Lạc Dương ở phía Đông. Từ lúc ấy, Tây Chu cáo chung, bắt đầu thời đại Đông Chu.

-Thời Đông Chu : từ Chu Bình vương đến khi mất nước, cũng kéo dài hơn 400 năm. Vua Đông Chu dần dần chỉ còn là hư vị, ngồi làm Thiên tử bù nhìn ở Lạc Dương chứng kiến thiên hạ loạn lạc, chư hầu tranh bá đồ vương mà thôi.

3-Xuân Thu : Thời kỳ 800 nước chư hầu của nhà Chu tranh giành quyền lực, đấu đá, thôn tính lẫn nhau. Trong thời Xuân Thu kéo dài hơn 200 năm, trước sau có 5 vị bá chủ (Ngũ bá) đó là : Tề Hoàn công, Tấn Văn công, Tần Mục công, Tống tương công, và Sở Trang vương. Trừ Tống Tương công ra, bốn người còn lại đều là những bậc kỳ tài, xuất chúng, uy đức và công nghiệp bao trùm cả thiên hạ. Các nước nhỏ lần lượt bị thôn tính, mất dần.

4-Chiến Quốc : Thời kỳ tiếp theo Xuân Thu, cũng kéo dài gần 200 năm. Trong thời này, chỉ còn lại 7 nước lớn (Tần, Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Nguỵ) luôn năm chinh chiến, công phá lẫn nhau, tranh giành quyền thống trị thiên hạ. Trong khi đó, tất cả vẫn công nhận nhà Đông Chu là ... Thiên tử, như một quyền lực hư vị. Về sau, Tần Thuỷ hoàng diệt Chu, gồm thâu lục quốc, thống nhất thiên hạ, lập nên nhà Tần, là triều đại chính thức nối tiếp triều đại Chu.

5-Sinh linh : (Sinh : sống - Linh : linh hồn - Sinh linh : những tạo vật , chỉ chung cả người lẫn động vật). Nghĩa phổ thông : Bá tánh, bách tính, trăm họ, muôn dân, nhân dân.

6-Đồ thán : (Thán : than oán - Đồ : giết, bị giết). Nghĩa rộng : Ta thán vì cực khổ đủ mọi mặt, cực khổ đến cùng cực.

7-Tấn : Một chư hầu lớn của thời Đông Chu, đất đai ở miền Bắc và Trung Trung quốc.(thường gọi là Trung nguyên). Do đặc điểm địa lý ấy, Tấn là một nước lớn, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phân bổ thế và lực của nhiều nước xung quanh. Thời cực thịnh của Tấn là thời Tấn Hiếu Công, và sau đó là Tấn Văn công (Trùng Nhĩ) . Vị này là một trong Ngũ bá.

8-Tam Tấn : Khi Tấn suy, các quan khanh họ Nguỵ, họ Triệu, họ Hàn thoả thuận chia nước Tấn ra thành ba nước nhỏ là : Nguỵ, Hàn, Triệu (gọi chung là Tam Tấn : Ba nước Tấn ... nhỏ ). Trong ba nước này, Triệu mạnh nhất về quân sự, nhất là sau khi thôn tính nước Trung Sơn và nước Đại ở phương Bắc. Còn Nguỵ thì có ảnh hưởng lớn về chính trị, văn hoá, nhờ ở vào vị trí trung tâm của Trung quốc thời ấy.

9-Qua can : (Qua : giáo- Can = côn : cây gậy) , cũng như “can qua”, nghĩa là côn và giáo, tên các binh khí thời ấy. Từ này ngầm chỉ việc chiến tranh
Qua can tranh cường : Dùng gươm giáo để phân định hơn thua, mạnh yếu

10-Biên thuỳ : Biên cương, biên giới, vùng đất ở ranh giới giữa 2 nước

11-Thiên di : Dời đi, chuyển đi nơi khác.

12-Nhược : yếu (phản nghĩa của Cường : mạnh)

13-Hư vong : Suy sụp, mất nước

14-Vương tôn : con vua cháu chúa. Chỉ giới quý tộc, thượng lưu trong thời cổ xưa.

15-Phù vân : Mây nổi.
Thơ cổ có câu : “Thiên thượng phù vân như bạch y; Tiêu diêu hốt biến vi thương cẩu”.
Nghĩa là “Trên trời mây nổi lơ lửng như chiếc áo trắng; Thoắt một cái đã vội biến thành con chó màu xanh”; ý cả câu muốn nói đến sự thay đổi “Tang thương dâu bể” ở cõi đời này, không có gì tồn tại lâu dài mãi được.

16-Trường tồn : Tồn tại lâu dài, còn lại lâu dài, không bị mất đi.

17-Hưng vượng : Thịnh vượng lên, giàu có thêm, phát đạt hơn.

18-Điêu tàn : Suy tàn, tàn dần, điêu đứng khổ sở.

19-Xuất xứ cơ hàn : Xuất thân từ chỗ nghèo đói mà ra. (Cơ : đói; Hàn : lạnh)

20-Tồn sinh : (cũng như “Sinh tồn”) nghĩa là sống còn, còn duy trì, còn kéo dài được mạng sống.

21-Thiên tư : Vốn liếng trời cho

22-Thông minh : Tinh anh, sáng láng, sáng suốt, lanh lợi.

23-Pháp binh :
-Pháp : tương tự như khoa “Chính trị học” ngày nay, trọng tâm là cách điều hành một quốc gia, quản lý kinh tế, tài chính, hành chính, xã hội.
-Binh : tương tự như khoa “Quân sự học” ngày nay; trọng tâm là phép hành quân, đánh trận, tổ chức quân đội.

24-Bách gia chư tử : Các bậc thầy (người giỏi) trăm nhà thời Chu. Mỗi nhà là một trường phái triết học khác nhau, bao gồm Khổng tử,Mạnh tử (Nho), Lão tử (Lão), Mặc tử (Kiêm ái), Tôn tử (Binh), Quỷ Cốc tử (Số) v.v......

25-Lão thông : làu thông, hiểu rõ, thông suốt, thuộc lòng.

26-Thuyết Nan cố sự : những chuyện cũ, những sự kiện thời trước được ghi lại trong sách “Thuyết Nan”.
Thuyết Nan : ( Du thuyết khó , Khó mà nói để thuyết phục được người ta ) là một pho sách cổ , ghi lại những mẩu chuyện về những người giỏi khoa miệng lưỡi, giỏi biện luận, chuyên dùng lý lẽ để khuất phục các vua chúa thời đó.

27-Trang bản lãnh : Người có tài năng thực sự về các lãnh vực thực dụng trong cuộc sống.
Người tài hoa : Người giỏi về các môn nghệ thuật.

28-Ninh Thích : Một nông dân, gặp vua Tề Hoàn công (Tiểu Bạch) lúc đang ... chăn trâu; được vua Tề trọng dụng, mời ra giúp nước. Ninh Thích là một trong số năm vị quan đầu triều của nước Tề, lúc Tề làm bá chủ chư hầu.

29-Tề Hoàn : tức Tề Hoàn Công, vị bá chủ đầu tiên thời Xuân Thu

30-Chu toàn : Hoàn thành chu tất mọi việc

31-Trung quân báo quốc : Trung với vua, báo đền ơn nước.

32-Trị an nước nhà : Góp tay vào việc bình trị, cai quản công việc trong nước, khiến cho nước nhà được yên ổn.

33-Quần bô : Quần may bằng vải bô, một loại vải gai, vải đay, dệt bằng sợi thô, cứng.

34-Tiến dẫn : Dẫn dắt, tiến cử người có tài lên cấp trên, để cho người ấy được trọng dụng.

35-Nên danh : Trở nên người có danh tiếng; Đạt được thành công trong đời.

36-Lược thao : (Lược : Mưu kế- Thao : Phép dùng binh), nghĩa cũng giống như “Thao lược”, nghĩa là tài năng, mưu trí (trong việc cầm quân, đánh trận)

37-Đại Lương : tức Biện Lương, Khai Phong, kinh đô nước Nguỵ, nay là thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc

38-Thành Bộc : Địa danh nổi tiếng thời Xuân Thu, nơi xảy ra cuộc giao binh giữa Tấn và Sở. Nguyên soái nước Tấn Tiên Trẩn phá tan quân Sở của Thành Đắc Thần, khiến tướng này phải đâm cổ tự sát

39-Truy : đuổi theo

40-Hào Đình : tức Hào Sơn, cũng gọi là Đông Sơn, nơi Nguyên soái nước Tấn Tiên Trẩn đại phá quân Tần, bắt sống cả 3 viên tướng chỉ huy, gồm đó có Mạnh Minh Thị là con trai của Tả thừa tướng Bá Lý Hề, Kiển Bính là con trai Hữu thừa tướng Kiển Thúc, và mãnh tướng Tây Khuất Thuật, cả 3 đều là tướng giỏi bậc nhất thời ấy.

41-Nam Quận : tức Dĩnh Đô, kinh đô nước Sở

42-Yên Kinh : kinh đô nước Yên

43-Cự Lộc : Một trọng điểm chiến lược về mặt quân sự ở nước Triệu, thuộc tỉnh Hà Bắc. Đồng thời cũng là quê hương bản quán của họ Triệu

44-Hàm Dương : kinh đô nước Tần, thuộc Tây An, Thiểm Tây ngày nay

45-Sa trường : Chiến trường

46-Tôn tử : tức Tôn Vũ, người Tề, làm tướng Ngô, có công diệt nước Sở. Tôn Vũ đã soạn ra một bộ binh pháp bất hủ có tên là “Tôn tử binh pháp” gồm 13 thiên, đến ngày nay vẫn còn giá trị.
Cháu nội của Tôn Vũ là Tôn Tẫn cũng được người đời gọi là Tôn tử.
Tôn Tẫn học Binh pháp của Quỷ Cốc tử kết hợp cùng binh pháp gia truyền, trở thành một binh gia nổi tiếng không kém gì Tôn Vũ. Ông làm quân sư cho tướng Tề Điền Kỵ, tiêu diệt được Phò mã nước Nguỵ Bàng Quyên
Gã Bàng Quyên này vốn là bạn học đồng môn của Tôn Tẫn, vì ghen tài đã phản bạn, chặt đứt gân chân họ Tôn, khiến Tôn Tẫn phải tàn tật suốt đời.

47-Ngô quân : tức Ngô Khởi người nước Vệ, làm tướng cho Lỗ, Nguỵ, Sở. Quân của ông nổi tiếng là “Phụ tử chi binh” (Tướng với quân coi nhau như cha con)
Tôn Vũ và Ngô Khởi được người đời sau xem như 2 vị tướng giỏi nhất mọi thời đại.

48-Tô Tần : học trò của Quỷ Cốc tử, nổi tiếng về tài năng “Du thuyết”
(Du thuyết nghĩa là đi các nơi, dùng miệng lưỡi chinh phục vua chúa, khiến họ phải nghe theo các sách lược của mình).
Tô Tần là người đề ra chiến lược “Hợp tung” (Hợp 6 nước theo chiều dọc, hình thành thế Đông Tây đối đầu, Đông gồm 6 nước - Tây là nước Tần). Ông du thuyết lục quốc kêu gọi họ liên hợp sức mạnh của 6 nước chống lại nước Tần. Tô Tần là người duy nhất thời Chiến quốc được phong làm “Tướng quốc 6 nước”.
Trong khi đó Trương Nghi (bạn đồng môn với Tô Tần) lại đề ra chiến lược “Liên hoành”(Liên kết các nước theo trục ngang, hình thành thế Bắc Nam phân tranh, Bắc gồm Tần, Yên, Triệu - Nam gồm Hàn, Nguỵ, Tề, Sở). Trương Nghi cũng làm đến chức tướng quốc nước Tần (đời Tần Huệ Văn vương).
Hai chiến lược “Hợp tung” và “Liên hoành” giằng co với nhau trong hơn nửa thế kỷ. Lúc thì chiến lược này giành ưu thế, lúc thì chiến lược kia chiếm tiên cơ.

49-Canh tân : (Canh : sửa sang lại - Tân : làm mới lại) = Đổi mới, cải cách, cải tổ

50-Ngư ông sông Vị : chỉ Khương Thượng (Khương Tử Nha), cũng gọi là Lã Vọng, người đã có thời hàn vi kéo dài đến 70 năm ! Làm ngư ông câu cá ở sông Vị (Vị thuỷ, Vị hà), đặc biệt lưỡi câu của ông thẳng băng, không có móc câu. Người đời thắc mắc, ông bảo : -“Câu tôm câu cá lưỡi câu phải cong; câu danh câu lợi chẳng cần đến móc !”
Sau được Văn vương trọng dụng, trao cho binh quyền, Khương Thượng đã giúp Võ vương diệt Trụ lập nên nhà Chu

51-Nương mình : (Nương : nương dựa , nương náu.) Ẩn mình chờ thời

52-Trau dồi : dùi mài (cho sắc bén, giỏi giang)

53-Xa phu : người đánh xe; người điều khiển ngựa kéo cỗ xe ngựa

54-Đại phu : Chức quan văn trung cấp trong các triều đình cổ xưa.

55-Giang hồ hào sĩ : (Sĩ : người có học - Hào : hào kiệt, người anh hùng) Những người tài giỏi cả văn lẫn võ ở khắp mọi nơi, (Giang hồ : khắp các sông hồ, khắp 4 phương trời)

56-Thủ túc : tay chân.
Tình như thủ túc : tình thắm thiết, gần gũi, không thể chia lìa như tay với chân trong cùng một cơ thể.

57-Hàn nho : kẻ sĩ nghèo, nho sinh nghèo, học trò nghèo.

58-Tận nghĩa tận trung : Hết sức hết lòng giữ trọn 2 chữ “Trung, nghĩa”

59-Vun bồi : vun thêm cho cao, đắp thêm cho dày

60-Cúc cung tận tuỵ : Dốc lòng cố gắng

61-Hiểm sâu : bề mặt thì tử tế, tốt lành; nhưng trong đáy lòng thì mưu mô ác độc, chỉ chực lén lút hại người.

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.05.2008 09:13:09
0
LƯỢC BÌNH đọan 1 (by NGUYỄN HỒNG BẢY - H7C)
 
1-Sự phân hoá của xã hội :

Từ xưa đến nay, ở bất cứ xã hội nào, quốc gia nào, thời đại nào cũng đều có một sự phân hoá giống nhau. Đó là sự phân hoá giàu nghèo. Trong số một trăm người, thường thì chỉ có một người xuất thân từ chăn ấm nệm êm, cửa cao nhà rộng - chín mươi chín người còn lại phải xuất thân từ túng cùng nghèo khổ.

Giữa những người nghèo khổ ấy, lại hình thành ra nhiều tầng nấc khác nhau :

-Sung sướng nhất vẫn là những người nghèo mà không khổ. Chỉ thiếu thốn đôi chút, chật vật vừa phải, hoặc lao động vất vả ở mức độ còn có thể chấp nhận được.

-Kế đến là những người nghèo khổ : vừa nghèo vừa khổ. Người thì gia đình xào xáo, chia lìa. Người thì triền miên bệnh tật, túng thiếu, đói ăn, khát uống. Người thì không có cả đến một mái nhà làm chỗ nương thân. Người thì bôn ba trôi dạt khắp bốn phương trời, lây lất vì miếng cơm manh áo trói buộc mãi không thôi. Người thì suốt đời làm thuê làm mướn, làm tôi làm mọi, hết đời này sang đời khác, chẳng khác nào con sâu cái kiến mà ai cũng có thể dẫm đạp lên được.

-Nhưng cái thành phần khốn khổ nhất vẫn là thành phần trẻ mồ côi, mất cha mất mẹ, bị thân nhân ruồng bỏ, khiến phải sống tha phương cầu thực. Việc cực nhọc nào cũng sẵn sàng làm. Thức ăn bỏ đi nào cũng có thể bỏ vào miệng. Xó hang tối tăm ẩm thấp nào cũng có thể chui rúc, miễn sao là còn giữ được sinh tồn !

Victor Hugo-đại văn hào Pháp- trong nhiều tác phẩm kinh điển của ông, đã từng viết và cảm thương cho cái tầng lớp bị vùi dập ở tận cùng dưới đáy bùn đen của xã hội này.

2-Hai hướng vận động ngược chiều :

Dễ dàng nhận thấy có một thực tế dường như “nghịch lý” (trái với lẽ thường), thường xuyên diễn ra, đó là 2 hướng vận động ngược chiều trong tiến trình “vươn lên” của các thành viên trong xã hội :

-Ở vào hoàn cảnh được hưởng mọi tiện nghi vật chất, mọi điều kiện thuận lợi để ăn học, để nên người, để thành đạt cao trong xã hội, một số lớn con cái nhà giàu có đã không biết nắm bắt, tận dụng những lợi thế vô cùng lớn ấy. Họ lơi là việc học tập, buông lỏng việc rèn luyện bản thân, sa đà vào ăn chơi, phí uổng cả tuổi xuân lẫn thời gian cũng như tiền bạc vào những công việc phù phiếm, vô vị, vào những trò giải trí vô bổ, rỗng tuếch; thậm chí trở thành “phá gia chi tử”, phá tan tành sự nghiệp do cha mẹ suốt cả đời chắt chiu, khó nhọc xây dựng.

-Ngược lại, một số không ít con em nhà bần dân lại nỗ lực vươn lên, thực hiện thành công những cuộc “đổi đời” ngoạn mục ! Có người phải lấy khố chuối che thân, có người phải bắt đom đóm thay đèn, có người chuyên “học nước rút” trong những đêm trăng sáng , có người phải học cách dùng que vạch chữ trên cát thay cho giấy bút, có người phải học lóm bên mái hiên trường, có người học hoàn toàn bằng sách vở, tư liệu đi mượn của kẻ khác. Cuối cùng thì nỗ lực của họ cũng được đền đáp xứng đáng. Thật đáng khen làm sao. Thật vẻ vang làm sao !
Sử sách xưa và nay đã ghi nhận rất nhiều những trường hợp ngược đời như vậy .

Có thể nói được rằng : Sự sung túc -không biết tận dụng- sẽ làm mất động cơ tiến lên, làm thoái hoá trì trệ con người. Còn nghèo khổ - vốn không phải là trái ngọt để người ta ưa thích hay ham muốn - nhưng xét trên một bình diện nào đó, chính “sự nghèo khổ” cũng có ý nghĩa tích cực của nó. Nó đã trở thành chất xúc tác, nguồn động lực kích thích người ta vươn lên, thoát ra khỏi ... chính nó vậy ! .

3-Trở lại cùng nhân vật Phạm Thư :

Qua chỉ một vài dòng khắc hoạ sơ lược của HSN, ta cũng thấy được một con người xuất thân cùng khổ :-“Mẹ cha mất sớm, họ hàng lìa xa, trôi dạt đây đó, việc gì cũng làm, chăm chỉ học tập v.v...”
Đứa trẻ mồ côi cha mẹ - từ khi 12 tuổi này - đã mất đến 18 năm lăn lộn vất vả để cuối cùng trở thành một “trang bản lãnh, người tài hoa, tài năng chuyển đất rung trời, hào sĩ giang hồ đều kính nhường, thân như thủ túc v.v...”
Mười tám năm lăn lóc dưới đáy xã hội ! Mười tám năm xuất thân từ hoàn cảnh khốn cùng, con người ấy đã phải trải qua biết bao gian nan, cực khổ ! Người viết không nói rõ, nhưng chúng ta đều có thể tưởng tượng ra được sự khốn khó cùng cực, ý chí vươn lên mạnh mẽ của con người ấy là vô cùng ! Vô cùng !

Ý chí vươn lên ấy có thể là gương sáng cho nhiều người, thuộc mọi thời đại khác nhau, cùng noi theo vậy.

Xin có thơ rằng :

Quản chi cơ cực lúc đầu đời
Nuốt trôi vị đắng giọt sầu rơi
Bền chí, công thành danh hiển đạt
Hơn nhau một chút ấy mà thôi.

Hồng Thất Công (2001)
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 29.05.2008 10:02:54
0
Phạm Thư tận nghĩa tận trung
Nghĩ mình ăn quả, cố công vun bồi
Cúc cung tận tụy ở đời (61)
Biết đâu lòng dạ con người  hiểm sâu.
 
    -2-
 
TU CỔ ĐI SỨ NƯỚC TỀ
 


 
Ngày kia vua Ngụy khai chầu
Bá quan văn võ đứng hầu hai ban
Chúa tôi quốc sự luận bàn
Phân vân chưa biết liệu toan cách nào
An Ấp, Tần muốn đã lâu
Ngày nay yêu sách phải giao năm thành
Không giao tất xảy chiến tranh
Đầu rơi máu chảy, quốc thành tan hoang
Thuận lòng chiều lũ sói lang (71)
Đem dê nuôi cọp, cọp càng thêm nanh
Ngày sau nó lại vồ mình
Chi bằng cự tuyệt dứt tình cho xong
Tu Cổ bàn kế sang Đông
Giao hoà lân quốc mua lòng Tề vương
Môi răng liên kết hỗ tương
Sách lược hợp nhất, song phương đồng hành
Vua rằng:-“Muốn kế ấy thành,
Phải cho sứ giả thuyết minh với Tề
Gấm trăm đoạn, lụa trăm xe (81)
Bạc vàng chẳng tiếc, chỉ e thiếu người
Trước sau không có nhân tài
 Ai người du thuyết giãi bày chủ trương ?
Việc giao Tu Cổ đảm đương !”
Đại phu vâng lệnh rắp đường Đông du
Đem theo cả gã xa phu
Trước là giong ngựa sau nhờ trí  mưu
Hành trang chuẩn bị lao xao
Cân phân mọi lẽ, hôm sau đăng trình

Đông thành có Trịnh An Bình (91)
Vóc người cao lớn dáng hình oai phong
Thân nhau trải mấy thu đông
Văn tài điêu luyện võ công hơn người 
Ngày thường cơm độn ngô khoai
Anh em tương kính ngọt bùi sẻ chia
Nhân nay có việc sang Tề
Xin cùng Tu Cổ cho đi theo hầu
Đánh xe dắt ngựa có nhau
Mã phu chân ấy ai cầu mà chi
Đường xa có bạn có bè (101)
Giúp lo rơm cỏ, phòng khi chẳng lành
Hôm sau vừa rạng bình minh
Một đoàn xe ngựa rời thành Đại Lương
Vó câu trực chỉ viễn phương
Hai mươi mãnh tướng đường đường oai phong
Ba ngày rong ruổi ruổi rong
Thoắt đà đến trước cửa Đông nước Tề
Điệp văn trình báo mọi bề
Cổng thành rộng mở rước về dịch trung
Nghỉ ngơi đâu đó vừa xong (111)
Vua ban yến tiệc thưởng công sứ thần
Rượu ngon say đã bảy phần
Tề vương hạ lệnh hai quân tranh tài
Tướng văn tướng võ mua vui
Thưởng công trăm lượng cho người tài cao
Hai mươi mãnh tướng theo hầu
Kẻ trước tan tác, người sau quáng quàng
Cọp long móng, cua mất càng
Khôn nhà dại chợ, bẽ bàng lặng thinh
May mà còn Trịnh An Bình (121)
Mã phu nổi trận lôi đình ra oai
Một phen tráng sĩ  trổ tài
Tướng Tề đổ máu, gãy tay, vỡ đầu 
Người sứt trán, kẻ xuôi râu
Quan quân hổ thẹn, vương hầu thất kinh
Sức thua, thua đã phân minh
Lệnh vua lại khiến giao tranh cuộc cờ
Thử xem trí giả hiền ngu
Danh kỳ Tề quốc so đo sứ thần
Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
Sắp bày địa võng thiên la
Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông 
Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi
Vua tôi Tề quốc hỡi ơi
Kém anh dắt ngựa, thua người đánh xe
Lòng riêng, riêng những não nề
Tiếng là thượng quốc, cam bề thất cơ ?
An dân, quốc sách, binh cơ (141)
Ba câu vấn nạn, sững sờ kinh tâm
Mồ hôi Tu Cổ tuôn dầm
Rành rành có miệng hóa câm bao giờ
May thay còn có Phạm Thư
Lẹ làng ứng đối giải trừ khó khăn
Dễ dàng định quốc an dân
Dụng binh mưu trí quỷ thần cũng thua
Tề vương ngơ ngẩn ngẩn ngơ
Cười thầm vua Ngụy bỏ lơ nhân tài
Rõ là có mắt không ngươi  (151)
Tài năng thế ấy làm người xa phu !
Thưởng cho vàng lụa gấm tơ
Khuyên mời ở lại, dưới cờ lập công.

Bấy giờ đại tiệc vừa xong
An Bình chí muốn nghinh phong theo Tề
Bàn rằng :-“Cơ cực hàn vi,
Bao năm ở Ngụy thảm thê não nùng
Tề vương có lượng bao dung
Chi bằng ở lại lập công xứ này !”
Thư rằng :-“Đạo lý xưa nay (161)
Lá rụng về cội, cáo quay về nguồn
Dẫu rằng ở Ngụy héo hon
Lẽ nào tham lợi mưu toan giúp Tề
Mồ cha mả mẹ còn kia
Thế nào cũng phải trở về cố hương
Ngày nay phụ ý Tề vương
Ngày sau Trời sẽ dọn đường cho ta”
Bình rằng :-“Trí giả trông xa
Một lòng vì nước thật là đáng khen
Chỉ e tôi nịnh vua hèn (171)
Chuyến này về Ngụy khó yên trong ngoài
Trước là cơ hội phí hoài
Sau là khổ lụy khiến người cười chê
Tốt hơn hãy ở lại Tề !”
Thư cười :-“Kẻ sĩ ngại gì dèm pha
Lương tâm sáng tựa sao sa
Hồ đồ thêu dệt, chẳng qua hồ đồ
Mặc cho thiên hạ mưu mô
Lẽ nào quân tử bo bo lợi mình
Thư này quyết chẳng ham danh (181)
Cũng không hám lợi cầu vinh xứ người
Chí ta, ta đã quyết rồi
Ra tài phụng sự vun bồi quê hương
Lâm Tri kim mã ngọc đường
Sao bằng tiểu tốt Đại Lương cô thành !”
Bình nghe kiên quyết ý tình
Thôi thì may rủi tử sinh mặc trời
Cam lòng bạn hữu có đôi
Cùng về cố quốc buồn vui chung phần
Tề, Ngụy kết mối tương thân (191)
Sứ đoàn Tu Cổ nhanh chân ra về
Môi răng liên kết chở che
Mới mong ngăn chặn bánh xe nước Tần
Chia tay, vua  lại ân cần
Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
Ban cho hảo tửu trân châu
Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 29.05.2008 10:12:25 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 29.05.2008 10:07:02
0
GIẢN CHÚ  Đoạn 2, trang 19-23
by Nguyễn Phú

TU CỔ ĐI SỨ NƯỚC TỀ
 
1-Khai chầu: Mở một cuộc hội họp (định kỳ) giữa vua và các quan ở ngay tại cung đình.(Khai chầu = khai trào = khai triều)
2-Bá quan : Trăm quan, các quan
3-Chúa tôi : Vua và các bề tôi
4-Quốc sự luận bàn : Thảo luận, bàn bạc về các sự kiện quan trọng trong nước
5-Yêu sách : Đòi hỏi những điều quá đáng, khó thực hiện, khó đáp ứng.
6-Quốc thành :
-Kinh thành, thủ đô của một nước
-Các thành trì trong nước
7-Lũ sói lang : bọn người độc ác như chó sói, chỉ chực phanh thây xẻ thịt người khác
8-Cự tuyệt : Từ chối dứt khoát, từ chối thẳng thừng.
9-Lân quốc : Nước láng giềng (Như : Lân bang)
10-Hỗ tương : lẫn nhau; giúp đỡ cho nhau
11-Sách lược hợp nhất, song phương đồng hành : Hai nước có chung một chính sách (đối ngoại), thống nhất cùng nhau hành động , cùng đi chung đường với nhau.
12-Thuyết minh : giải thích, trình bày cho rõ ràng một vấn đề
nào đó
13-Rắp (đường Đông du) : chuẩn bị sẵn trong đầu (mọi cách thức, mọi đường lối sẽ thực hiện khi sang Tề đi sứ)
14-Hành trang : hành lý, vật dụng mang theo khi đi đường
15-Cân phân : Tính toán tỉ mỉ, chi tiết, rõ ràng, kỹ lưỡng
16-Đăng trình : Lên đường, bắt đầu một chuyến đi
17-Mấy thu đông : Mấy năm
18-Điêu luyện : Cực khéo, cực giỏi
19-Mã phu : Người chăn dắt ngựa
20-Viễn phương : Phương xa
21-Mãnh tướng : Tướng mạnh
22-Điệp văn : văn thư, văn kiện chính thức của nước này gửi cho nước kia, nhằm thông báo một sự kiện quan trọng, hoặc giới thiệu một người nào đó đảm nhận một nhiệm vụ chính thức được phân công. Từ hiện đại gọi là “thông điệp”, “quốc thư”, “uỷ nhiệm thư”.
23-Dịch trung : Nghĩa giống như “quán dịch, dịch quán, dịch đình, dịch đường”.
Nơi dành riêng cho các đoàn khách nước ngoài nghỉ ngơi khi đi sứ . Từ hiện đại là “Nhà khách ngoại giao đoàn”, “Lễ tân phủ”.
24-Quáng quàng : Cuống cuồng lên vì tối mắt tối mũi, không còn phân biệt được đông tây nam bắc gì nữa.
25-Nổi trận lôi đình : nổi giận đùng đùng.
Ngày xưa ở chốn công đường, khi các quan phụ mẫu nổi cơn tức giận, thường quát tháo ầm ầm như sấm như sét, khiến dân đen thất kinh hồn vía, vì thế mới gọi là “nổi trận lôi đình”. Công đường, nơi xử án, cũng được gọi là “sân lôi đình” vì lẽ ấy.
26-Thử xem trí giả hiền ngu : Thử xem xem những người mưu trí, giỏi hay là dở.
-Hiền : giỏi, có tài có đức
-Ngu : kém cỏi, vụng dại, ít tài thiếu đức
-Trí giả : Người có mưu trí, người có học thức
27-Danh kỳ : Những người đánh cờ giỏi, nổi tiếng.
28-Tốc chiến : đánh nhanh, đánh ào ạt, mục đích muốn thắng nhanh.
29-Kiên thủ : Kiên trì, kiên cường phòng thủ. Thủ ráo riết, chắc chắn, kín kẽ, không để lộ ra sơ hở nào cho đối phương khai thác. 
30-Địa võng thiên la : Những tấm lưới bủa giăng khắp trên trời dưới đất, không cho người và chim chóc, muông thú ra thoát. Ý là : “xiết chặt vòng vây”.
31-Trấn biên mai phục :
-Mai phục : Giấu quân, không lộ diện, nhằm đánh bất ngờ, mãnh liệt vào đối phương (Như : Phục kích)
 -Trấn biên : Những vùng biên cương, biên giới, vùng hoang vắng hiểm trở, xa nơi kinh thành.
32-Sơn hà tương thông : Núi và sông thông được với nhau. Ý nói các vùng trong nước đều dễ dàng qua lại, tiếp ứng, cứu viện cho nhau.
33-Liên hoàn trận : Một trận thế trong đó các thành phần quân đội tham gia đều giữ được mối dây liên kết chặt chẽ, sẵn sàng ứng cứu cho nhau, không có thành phần nào bị cô lập, tách rời ra khỏi tổng thể.
34-Thượng phong : Thế trên gió, thế xuôi gió; Nghĩa là “ưu thế, thế thuận lợi”.
35-Kỳ binh :
-Chính binh : là quân dàn trận đánh thẳng vào chính diện trận địa đối phương.
-Kỳ binh : là quân đánh bất ngờ, từ một hướng phụ không ai ngờ, đột nhiên tham chiến.
36-Tập kích : Từ xa, tiến đến đánh bất ngờ vào địch quân. (Như : Bôn tập)
37-Vãn hồi : Cứu vãn lại một cái đã thua, đã hỏng, đã mất.
38-Thượng quốc : Nước lớn hơn, nước mạnh hơn.
39-Thất cơ : Mất thời cơ, mất tiên cơ, mất thế chủ động, mất ưu thế thuận lợi.
40-An dân, quốc sách, binh cơ : Ba vấn đề lớn của một quốc gia, những sách lược để yên dân, trị nước, tổ chức quân đội.
41-Vấn nạn : Những câu hỏi khó đáp, khó giải quyết; Những vấn đề đau đầu, câu hỏi đố nhằm làm cho người ta phải bế tắc.
42-Kinh tâm : Hoảng sợ đến nỗi tim đập huỳnh huỵch.
43-Ứng đối : Tuỳ theo, nương theo người ta mà có cách đối đáp thích hợp với hoàn cảnh, với tình thế lúc ấy.
44-Giải trừ : Gỡ bỏ, giải thoát
45-Định quốc an dân : Làm cho dân được yên ổn sinh sống, nước được thái bình thịnh trị.
46-Dụng binh : Dùng binh, cầm quân đánh trận.
47-Nghinh phong : Đón gió, đoán trước cơ hội tốt của thời thế mà có cách xử lý thích hợp, mục đích thu được ích lợi nhất cho mình.
48-Cơ cực hàn vi : Đói lạnh, khổ sở.
49-Lượng bao dung : lòng độ lượng, rộng mở, biết tha thứ, không chấp nê, bắt lỗi người khác.
50-Đạo lý : Lẽ phải, đường ngay . Những chuẩn mực đạo đức trong xã hội mà con người phải theo, để xứng đáng gọi là “Người”
51-Cáo quay về nguồn : Do câu tục ngữ “Cáo chết ba năm quay đầu về núi”.
Cũng giống như câu “Lá rụng về cội”, đều có chung một ý là “con người phải biết đến cội nguồn, không được quên gốc tích cũa mình
52-Cố hương : Làng cũ, quê cũ - Cố quốc : Nước cũ.
53-Trí giả : Người có tri thức, có mưu trí, có hiểu biết, có học.
54-Hồ đồ thêu dệt, chẳng qua hồ đồ :
Những người thêu dệt chuyện (một cách hồ đồ) nhằm nói xấu người khác, chẳng qua chỉ chứng tỏ bản thân họ là người hồ đồ mà thôi
(Hồ đồ : Hàm hồ, bừa bãi, nói lấy được, đặt chuyện không cần biết đến lẽ phải)
55-Quân tử : Người tốt, người hiền, người vị tha bao dung (phản nghĩa của “Tiểu nhân” là “kẻ nhỏ mọn, ích kỷ”)
56-Cầu vinh : mưu toan tìm lấy sự vẻ vang, mưu lợi cho bản thân
57-Kim mã ngọc đường : Nhà bằng ngọc, ngựa bằng vàng. Ý nói nhà cao cửa rộng, giàu có, quyền thế.
58-Tiểu tốt : Lính quèn, người tầm thường, người không có vai vế gì trong cộng đồng.
59-Cô thành : Thành lũy đơn lẻ, không ai trợ giúp.
60-Tử sinh : Chết và sống.
61-Tương thân : thân nhau, hoà hoãn với nhau, thân thiết với nhau.
62-Chén quỳnh : tức “chén quỳnh tương” = chén rượu.
63-Hảo tửu trân châu : Rượu ngon, ngọc quý.
64-Đinh ninh từ tạ : Cám ơn, nhưng nhất định khăng khăng từ chối, không nhân.
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 29.05.2008 10:22:27
0
LỜI BÀN đoạn 2 (by Nguyễn Hồng Bảy)
 
1-Thủ pháp phục bút “20 viên mãnh tướng”
 
Khi phái đoàn Tu Cổ chuẩn bị đi sứ nước Tề, người viết đã nhẹ nhàng hạ mấy câu như sau :
 
Hôm sau vừa rạng bình minh
Một đoàn xe ngựa rời thành Đại Lương
Vó câu trực chỉ viễn phương
Hai mươi mãnh tướng đường đường oai phong (106)
 
Đi sứ tất phải có người bảo vệ cho sứ thần và các tặng phẩm vàng lụa, việc 20 viên tướng mạnh đi theo hộ vệ cũng là điều hợp lý. Oai phong cũng là điều hợp lý.

Cái oai phong lẫm liệt ấy thể hiện qua 4 chữ “đường đường oai phong”. Chỉ thế thôi nhưng cũng đủ cho thấy đó là 20 con người cao lớn, hùng dũng, hiên ngang qua tầm vóc của thân xác, qua uy nghi của dáng vẻ, qua rực rỡ của y giáp
 
Chỉ nói vài câu rồi lảng sang chuyện khác.
Mười một câu sau đó, ở câu 117-120, ta lại bất ngờ gặp lại 20 viên mãnh tướng ấy, nhưng trong một bối cảnh khác, bối cảnh cuộc so tài ở triều đình Tề, cái “oai phong” của 20 viên tướng mạnh ấy nối tiếp như sau :
 
Hai mươi mãnh tướng theo hầu
Kẻ trước tan tác, người sau quáng quàng
Cọp long móng, cua mất càng
Khôn nhà dại chợ, bẽ bàng lặng thinh
 
Thật là bất ngờ.
Đó chính là thủ pháp “Phục bút” : ở đoạn trước nói lướt qua một điều gì đó, tưởng là tầm thường, để rồi ở đoạn khác tiếp nối sau, trở lại điều ấy với những bất ngờ thú vị, thậm chí đảo ngược hoàn toàn tất cả nhãn quan, định kiến trước đó.
 
Té ra cái oai phong của họ chỉ là như thế mà thôi : “Khôn nhà dại chợ !”
 
Phục bút “20 viên mãnh tướng” như thế nhằm mục đích gì ?
LAMXT xin được trả lời trong một bài bình khác.
 
2-Sự xuất hiện từ rất sớm của Trịnh An Bình :
 
Trong Sử ký Tư Mã Thiên và Đông Chu liệt quốc diễn nghĩa, Trịnh An Bình chỉ xuất hiện sau khi Phạm Thư lâm nạn, ra tay cứu sống Phạm Thư, rồi cùng nhau theo Vương Kê sang Tần.
Trong truyện thơ TTUHPT, Trịnh An Bình được HSN cho xuất hiện rất sớm, cùng theo Tu Cổ và Phạm Thư đi sứ nước Tề. Hư cấu như vậy hẳn là phải có lý do.
 
Dễ dàng nhận thấy, đoạn phục bút “20 viên mãnh tướng ... thua tơi tả”, cốt để đề cao anh mã phu Trịnh An Bình. Và qua anh mã phu tài giỏi này, đối chiếu những điều họ nghị luận với nhau trong vấn đề “sang Tề” hay “về Nguỵ”, để khắc hoạ ... người xa phu Phạm Thư vậy.
 
Tóm lại, việc cho Trịnh An Bình xuất hiện sớm, cũng như việc phục bút “20 viên mãnh tướng ... đại bại” chỉ nhằm một mục tiêu là giới thiệu các nhân vật chính qua hành động cụ thể mà thôi. Đó cũng chính là một kỹ xảo điện ảnh vậy.
 
H7C
 
oOo
 
HSN - Đôi điều nói thêm về 6 câu thơ (131-136) trong đoạn 2 :
 
CUỘC CỜ Ở NƯỚC TỀ
 
Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
Sắp bày địa võng thiên la
Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông
Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi (136)
 
***Lúc ban đầu , 6 câu này được viết như sau :
 
Tu Cổ ba thứ mất quân (131)
Phạm Thư ra trận lại giành tiên cơ
Thế như bão táp mưa sa
Pháo đầu trực chiến, mã hà giáp công
Thông xe tạo thế thượng phong
Tốt đầu xung trận khó mong vãn hồi (136)
 
***Khi bản UHPT có 6 câu ấy đến tay bác Bảy H7C Hồng Thất Công, bác Bảy đã cho ý kiến như thế này, HSN xin trích nguyên văn để các bạn đọc chơi cho vui :
 
“Sĩ Nguyên ạ,
 
Bốn câu ấy (133-136) có thể nói là cực hay, mà đồng thời cũng là ... cực dở !
 
-Cực hay vì chỉ trong 4 câu đơn sơ ấy, cả tứ đẳng liên quân (Xe-Pháo-Mã-Tốt) đều có mặt, mỗi quân phô diễn một thao tác riêng biệt, mang đủ các thuộc tính đặc trưng của chúng (Pháo đầu công chính diện, mã bàn hà trợ chiến, thông xe liên hoàn, tốt đầu độ hà xung kích), lại nói lên được thế cờ áp đảo (bão táp mưa sa, giành thượng phong) khiến cho cục diện bàn cờ không thể đảo ngược.
Nói tóm lại là chỉ qua 4 câu ấy thôi, người biết đánh cờ có thể hình dung ra được cả một bàn cờ, cả một thế trận vậy. Nói rằng 4 câu ấy cực hay là vì thế.
 
-Nhưng 4 câu ấy cũng ... cực dở, vì sao chú Nguyên có biết không ? Có lẽ chú đã sơ ý quên mất một điều là bối cảnh cuộc cờ ấy thuộc thời Xuân thu. Cờ thì lúc ấy đã có rồi, nhưng cờ vây thịnh hành, phổ biến, được ưa chuộng nhiều hơn cờ tướng, đặc biệt là ở trong cung đình.
 
Cờ vây (Vi kỳ) là loại cờ trong đó bàn cờ có 19 đường ngang, 19 đường dọc, không có sông ở giữa, quân hai bên vây bủa, tiêu diệt lẫn nhau, hình thế giống như một cuộc tranh giành giữa 2 lực lượng của cùng một nước
 
Cờ tướng (Tượng kỳ) là loại cờ trong đó có 9 đường ngang, 9 đường dọc, ở giữa có một giải phân cách 2 nước, gọi là sông, hình thế cuộc cờ này giống như cuộc chiến tranh giữa 2 nước vậy.
 
Thời Xuân thu thì cờ vây thịnh hành hơn cờ tướng (trái ngược với bây giờ : cờ tướng ưu thế, còn cờ vây gần như đã bị quên lãng hoàn toàn), do đó cuộc cờ trong truyện bàn đến dứt khoát phải là cờ vây (không có sông, không có các quân tứ đẳng chuyên biệt). Như vậy nói Xe pháo mã tốt là ... cực dở, cho mã lên ... hà lại càng thêm dở !
 
Hơn nữa, trong thực tế lịch sử, đến thế kỷ thứ 13, Thành Cát Tư Hãn Thiết Mộc Chân mới là người đầu tiên sử dụng đến PHÁO. Khái niệm Pháo trong bàn cờ tướng không thể có trước thực tế của xã hội được. Theo lịch sử môn cờ tướng, thì trước kia chỉ có những quân Xe Mã Tốt Thuyền... Mãi đến triều Minh, quân Pháo mới được khai sinh, thêm vào bàn cờ. Và những thế trận nổi tiếng như Bình phong mã, Pháo đầu (Ngũ thất pháo), Liên hoàn giáp mã tấn trung binh, Thuận pháo, chỉ được triển khai rầm rộ từ thời Minh, Thanh mà thôi.
 
Cho Phạm Thư đánh cờ tướng, đánh trận Pháo đầu, tấn trung binh ... e rằng ... sai lầm nghiêm trọng đó chú Nguyên ạ .....”
 
Đọc những lời bình ấy của bác Bảy, HSN quả thật đã toát mồ hôi lạnh. Nhận xét đúng quá. Bác Bảy quả là cao kiến ! Còn HSN thì đã sơ xuất, mắc một sai lầm khủng khiếp !
Hậu quả đương nhiên là phải mau lẹ chỉnh sửa lại đoạn ấy, cuối cùng thì có 6 câu như bây giờ :
 
 
Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
Phạm Thư kiên thủ khó phân thắng hoà
Sắp bày địa võng thiên la
Trấn biên mai phục, sơn hà tương thông
Liên hoàn trận, chiếm thượng phong
Kỳ binh tập kích khó mong vãn hồi (136)

Nhân đây, HSN xin một lần nữa cám ơn bác Bảy H7C . Cám ơn vô cùng. Cám ơn về mọi điều bác Bảy ạ
 
HSN
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 31.05.2008 11:41:28
0
Chia tay, vua  lại ân cần
Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
Ban cho hảo tửu trân châu
Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
 
-3-
 
KẺ ÁC ĐỒNG MƯU
 

 
Ba hôm về đến Ngụy thành
Đại phu đến trước sân đình báo công
Liên minh, ước đã lập xong (201)
Từ nay hai nước dốc lòng giúp nhau
Kể ra vấn nạn trước sau
Những lời đối đáp vơ vào bản thân
Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần
Không làm xấu mặt quả nhân xứ người
Tài như khanh, chẳng mấy ai
Cố công ra sức vun bồi quốc gia
Nay ban gấm vóc ngọc ngà
Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”


Tu Cổ hết sức vui mừng (211)
Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy
Ngụy Tề tướng quốc xưa nay
Nhiều phen bênh vực, bao ngày chở che
Quyền to, lại rất khắt khe
Lễ không ra lễ, có bề hại thân
Thầy trò một lũ quyền thần
Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè
Mặc cho nhà nước suy vi
Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều
Sinh linh nhà dột cột xiêu (221)
Thiên tai nhân họa đủ điều thê lương
Cùng đinh trăm họ thảm thương
Riêng quan tướng quốc trọn đường vui say.
Bấy giờ Tu Cổ ghen tài
Nhớ khi mất mặt trước ngai vua Tề
Thẹn mình thua gã đánh xe
Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn
Nghĩ ra kế độc mưu gian
Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người
Vòng ngà xuyến ngọc mười đôi (231)
Rượu ngon, gấm tốt, vàng mười trăm cân
Trước là tỏ dạ báo ân
Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi
Sau là nhân lúc vắng người
Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :
-“Chê bai tướng quốc ngu si
Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm
Tài năng như trẻ lên năm
Hung hăng, thô lỗ, cuồng dâm, ác tà
Một tội này, đã khó tha (241)
Lại còn thêm tội gian ngoa thông Tề
Bạc vàng chất đống đầy xe
Nhận nhiều châu báu toan bề vinh thân
Bao nhiêu bí mật quốc quân
Sõng tay bán rẻ chiếm phần lợi tư
Quan binh trông thấy ngờ ngờ
Rành rành tang chứng, sờ sờ điêu ngoa
Không tin cứ việc xét tra”
Ngụy Tề nghe nói thoắt đà ứa gan
Lửa đâu thiêu đốt tâm can (251)
Đùng đùng nổi giận, oang oang thét gầm
Định cho bắt đứa ác nhân
Đem về xử tội trước sân lôi đình
Tu Cổ vội vã tấu trình :
-“Việc này việc nhỏ, nhục hình là xong
Tối nay mở tiệc mừng công
Bá quan văn võ tiệc tùng vui chơi
Phạm Thư tất đón đưa tôi
Bấy giờ giữa tiệc đông người khảo tra
Trước là diệt đứa gian tà (261)
Sau là đủ mặt bách gia trông vào
Một đòn dằn mặt vương hầu
Trị cho tiệt giống cơ cầu dèm pha
Từ nay ai dám khinh ta ?”
Ngụy Tề đắc chí khen là mưu cao
Lệnh cho sắp đặt trước sau
Trong lo yến tiệc, ngoài mau đi mời
Lại cho chuẩn bị đòn roi
Gông cùm, kìm kẹp, nước sôi, lửa hồng
Dự mưu trị đứa gian hùng (271)
Để cho những kẻ hai lòng khiếp oai.


Nói về họ Phạm thảo ngay
Đâu ngờ lửa bén chân mày mà lo
Ung dung đọc sách ngâm thơ
Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng
Bỗng dưng cảm thấy hoang mang
Tâm tư xao xuyến, can tràng phân vân
Sục sôi như nước đến chân
Mắt môi bứt rứt, tinh thần nôn nao
Đi ra thôi lại đi vào (281)
Lòng buồn man mác, dạ sầu miên man
Tay nâng chén rượu thở than
Môi khô miệng đắng, tiếng đàn ngẩn ngơ
Tai to vạ lớn sẵn chờ
Lá vàng trước gió đong đưa phương nào ?
Lục bình trôi dạt về đâu ?
Ai hay gió thảm mưa sầu chờ ai ?
................................................. [Còn tiếp]
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 31.05.2008 11:45:52
0
GIẢN CHÚ  Đoạn 3, trang 23-26
KẺ ÁC ĐỒNG MƯU
(by Nguyễn Phú)

 
1-Hiền thần : bề tôi hiền, giỏi, có tài có đức.
2-Quả nhân : (cũng như “quả vương”, “cô gia”) đều là những tiếng tự xưng một cách nhún nhường, khiêm tốn của vua chúa. Ý nói mình là người kém tài thiếu đức nên lúc nào cũng hiu quạnh, đơn độc (cô, quả), không có ai giúp đỡ, phò tá.
3-Quan thầy : Người đỡ đầu, quan trực tiếp nâng đỡ, che chở.
4-Tướng quốc : Chức quan đầu triều thời xưa.
Lục quốc (Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tề, Sở) đều gọi là Tướng quốc. Riêng Tần gọi là Thừa tướng. Các chức danh này đều tương đương như “Thủ tướng” ngày nay.
5-Quyền thần : bề tôi chuyên quyền, lấn át quyền của vua.
6-Suy vi : (cũng như suy vong, suy tàn, suy thoái), càng lúc càng yếu kém dần, thoái hoá dần, dẫn tới sụp đổ.
7-Phủ phê : tràn trề, thừa mứa
8-Sinh linh : mọi người và mọi con vật, thường được hiểu như “nhân dân thấp cổ bé miệng”
9-Thiên tai nhân hoạ :
-Thiên tai : tai hoạ trời đem lại (Hạn hán, lũ lụt, bão tố,
động đất, dịch bệnh v.v...)
-Nhân hoạ : tai hoạ do con người tự gây ra cho mình và đồng lọai (Chiến tranh, phá huỷ môi trường sống ...)
10-Thê lương : thảm thiết
11-Cùng đinh : (Đinh : người dân, người thanh niên)
-Cùng đinh : dân cùng, dân nghèo khổ, hết đường sinh sống
-Bạch đinh : người tay trắng, không có phương tiện lao động, sản xuất
-Thuế đinh : Thuế đánh theo đầu người
-Tráng đinh : thanh niên khoẻ mạnh
12-Trước ngai vua Tề : Trước mặt vua quan nước Tề
(Ngai : Chiếc ghế vua ngồi).
13-Mê mê : Dây dưa không dứt
14-“Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người” :
(E = sợ, ngại – Toan : toan tính, dự định)
Do câu tục ngữ : “Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu” nghĩa là Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình”.
“Ngậm máu phun người” có nghĩa là “vu cáo, nói xấu, bày đặt chuyện làm tổn thương người khác”
15-Xuyến : loại vòng trang sức, chuyên đeo ở cổ tay, thường là có bản mỏng và dẹp.
16-Vàng mười : vàng ròng, vàng nguyên chất, vàng tốt nhất.
17-Báo ân : Đền ơn, trả ơn. Những câu tục ngữ liên quan :
-Thi ân bất cầu báo : Làm ơn cho người, chẳng mong người đền đáp lại.
-Dĩ oán báo ân : Lấy oán trả ơn
-Cứu vật vật trả ân; cứu nhân nhân trả oán (ơn, cứu nhơn)
18-Hổ ngươi : Xấu hổ, nhục nhã, thẹn thùng.
19-Nịnh sàm : nói càn nói bậy, không đúng sự thực, cốt để lấy lòng người trên, quan trên.
20-Thông Tề : lén lút liên hệ với nước Tề, làm tay sai cho Tề.
21-Ứa gan : Tức căm gan, tức phát điên lên được.
22-Tâm can : Tim và gan; nghĩa rộng là “lòng dạ, trong lòng, trong bụng”
23-Sân lôi đình : nơi xử án của các quan.
24-Nhục hình : hình phạt đánh đập vào xác thịt.
25-Khảo tra : dùng hình phạt nặng nề đánh vào thân xác , buộc người ta phải khai, phải cung xưng.
26-Bách gia : trăm nhà, nhiều người
27-Tiệt : hết sạch, hết nhẵn
28-Đắc chí : (cũng như đắc ý) thích chí, khoái ý, vừa lòng
29-Đứa gian hùng : kẻ gian dối nhưng khôn ngoan, khéo léo, nhiều mưu mô, dễ dàng qua mắt, đánh lừa được mọi người.
30-Kẻ hai lòng : kẻ phản phúc, người “đứng núi này, trông núi nọ”, “ăn cây táo, rào cây sung”
31-Thảo ngay : người thẳng thắn, có lòng tốt.
32-Lửa bén chân mày : Do câu tục ngữ “Như lửa cháy mày” (Mày : lông mày, chân mày), “Như nước đến chân” (Nước : nước lũ), đều có nghĩa là có việc quan trọng, nguy cấp, gây ra tổn thương nhanh chóng
33-Can tràng : gan ruột
34-Lục bình : Bèo (xanh), bèo trôi nổi trên sông.
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 31.05.2008 11:52:38
0
LỜI BÀN đoạn 3
(by Nguyễn Hồng Bảy H7C)
 
1-Hai cách cư xử
 
Ở đoạn cuối phần 2, khi tiễn chân phái đoàn Nguỵ sứ ra về, vua Tề đã tỏ lòng trân trọng, quý mến Phạm Thư, ban cho nhiều tặng vật
 
Chia tay, vua lại ân cần
Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu
Ban cho hảo tửu trân châu
Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.
 
Kẻ góp nhiều công lao có tính quyết định đến đại cuộc “liên minh Tề-Nguỵ” là Phạm Thư lại chỉ “Đinh ninh từ tạ ...”, rồi sau đó thì “mau mau đăng trình”
 
Trong khi đó ở đầu phần 3, lúc vua Nguỵ khen thưởng, gã bất tài vô tướng Tu Cổ lại có một cách xử sự khác hẳn.
Trước hết là nhận vơ phần công lao của kẻ khác về mình :
 
Kể ra vấn nạn trước sau
Những lời đối đáp vơ vào bản thân
 
Kế đến là ưỡn ngực ra, vênh vang nhận lãnh những lời ngợi khen, cũng như những tặng vật quý giá vua Nguỵ hàm hồ ban thưởng :
 
Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần
Không làm xấu mặt quả nhân xứ người
Tài như khanh, chẳng mấy ai
Cố công ra sức vun bồi quốc gia
Nay ban gấm vóc ngọc ngà
Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”
Tu Cổ hết sức vui mừng (211)
Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy
 
Quả là hai cách cư xử trái ngược hoàn toàn, việc tuy nhỏ nhưng cũng đủ để phơi trần tâm địa, bản chất hai con người ấy khác nhau, khác nhau xa lắm vậy.
 
2-Tu Cổ : một biểu tượng của kẻ tiểu nhân vô sỉ .
 
Chúng ta hãy điểm qua nhân cách của đại phu Tu Cổ :
 
-Về mặt khả năng : đó là một con người nhạy bén, biết tận dụng kẻ dưới, khai thác rút tỉa lấy những tinh hoa của người ta, mưu ích cho ... bản thân mình ! Qua 2 câu :
 
Đón đưa Tu Cổ đại phu
Việc công góp ý, việc tư lo lường (52)”
 
Ta thấy Phạm Thư không chỉ là một gã xa phu đánh xe đưa đón chủ bình thường, mà còn kiêm nhiệm nhiều chức năng lo liệu, kế hoạch, cố vấn cho họ Tu nữa. Hẳn là cái kế hoạch “liên minh Tề Nguỵ” cũng chẳng phải họ Tu đủ tài nghĩ ra đâu !
Ngay cả khi đi sứ nước Tề, Tu Cổ cũng không quên đem theo cái gã đánh xe “đa năng, đa nhiệm” ấy
 
Đem theo cả gã xa phu
Trước là giong ngựa sau nhờ trí  mưu (88)
 
-Về cá tính riêng, đó là một con người bộp chộp, nóng nảy, chỉ muốn thành công ngay, điều ấy thể hiện qua cách đánh cờ :
 
Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)
 
Khi gặp gian nan, khó khăn thì hoảng hốt, thậm chí tê liệt, hết biết cách đối phó :
 
........................., sững sờ kinh tâm
Mồ hôi Tu Cổ tuôn dầm
Rành rành có miệng hóa câm bao giờ (144)
 
-Về bản chất, đó là một kẻ tiểu nhân hèn mọn, ganh hiền ghét ngỏ, ngoài mặt thì ra vẻ tử tế, nhưng trong lòng chất chứa nọc độc, sẵn sàng hại người bằng đủ mọi hình thức :
 
Miệng Cổ không ngớt ngợi khen
Lòng Tu đố kỵ ghét ghen chất chồng (58)
 
Thẹn mình thua gã đánh xe
Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn
Nghĩ ra kế độc mưu gian
Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người (230)
 
-Về tâm địa, đó là một kẻ đê tiện, vô sỉ, nhận vơ tranh công của người, đắc chí vênh vang khi được ban thưởng, dẫu rằng bản thân y cũng thừa biết mình chẳng có một chút công cán gì :
 
Kể ra vấn nạn trước sau
Những lời đối đáp vơ vào bản thân (204)
 
Tu Cổ hết sức vui mừng
Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy (212)
 
-Về hành động : giỏi kéo bè kéo cánh, núp bóng quan thầy, hình thành đảng nịnh, mưu cầu vinh hoa, lợi ích cá nhân, bất chấp cảnh khổ của dân, bất chấp thế suy của nước, lại giỏi tài dèm pha, thóc mách, dựng chuyện ngọt xớt, miệng lưỡi nanh nọc :
 
Thày trò một lũ quyền thần
Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè
Mặc cho nhà nước suy vi
Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều (220)
 
Trước là tỏ dạ báo ân
Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi
Sau là nhân lúc vắng người
Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :
-“Chê bai tướng quốc ngu si
Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm
Tài năng như trẻ lên năm (239)
 
Chúng ta sẽ còn gặp lại nhân vật này ở các chương sau.
 
Tóm lại, đây là một nhân vật xấu xa trong số các nhân vật phản diện (Tu Cổ, Nguỵ Tề, Tuyên thái hậu, Triệu Quát v.v...) nhưng được khắc hoạ rất lý thú vậy.
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 03.07.2008 20:32:50
0
Tai to vạ lớn sẵn chờ
Lá vàng trước gió đong đưa phương nào ?
Lục bình trôi dạt về đâu ?
Ai hay gió thảm mưa sầu chờ ai ?
 
   -4-
 
PHẠM THƯ LÂM NẠN
 

 
Mặt trời vừa xế non Đoài
Đại phu ra lệnh đưa ngài nhập cung
Đến ngay tướng phủ Ngụy công (291)
Để cùng dự tiệc ăn mừng Đông du
Lòng ngay chẳng chút ưu tư
Phạm Thư vội vã đón đưa tận tình
Xe vừa vào đến trung dinh
Lệnh cho chờ đợi bên đình phía tây
Bá quan văn võ vui vầy
Thịt cao lấp núi, rượu đầy loang sông
Cười cười nói nói ung dung
Ca nhi múa hát, tơ đồng reo vui
Rượu say nghiêng ngả đất trời (301)
Bấy giờ mới liệu cuộc chơi khảo tù
Truyền cho bắt gã xa phu
Đưa vào chính điện công tư nghiêm hình
Phạm Thư chưa hiểu nội tình
Thoắt đà ngã gục tan tành thịt xương
Một là phản bội quân vương
Hai là cấu kết ngoại bang mưu đồ
Ba là tiết lộ quân cơ
Bốn là bôi bác nhuốc nhơ triều đình
Trăm ngàn con mắt thất kinh (311)
Chỉ e liên lụy đến mình mà thôi
Hết cùm kẹp, lại đòn roi
Máu loang mặt đất chưa vơi nhục hình
Phạm Thư vía bạt hồn kinh
Nhất thời chỉ biết vật mình kêu than
Trời cao cách biệt nhân gian
Không bênh không vực để oan người hiền
Ngụy Tề càng đánh càng điên
Men say càng bốc, ghét ghen càng nồng :
-“Đánh cho chết đứa cuồng ngông (321)
Đánh cho hết kẻ ám thông nước ngoài
Đánh cho tiệt nọc tay sai
Đánh cho trắng mắt những loài dèm pha”
Bá quan văn võ ngẩn ngơ
Hồn ai nấy giữ, cốt ngừa sát thân
Tu Cổ bạc ác bất nhân
Con ngươi trắng dã, lưỡi lằn đẩy đưa :
-“Oán thù chớ để dây dưa
Chẳng may cọp dữ Phạm Thư thoát nàn
Mưu thần chước quỷ đa đoan, (331)
Nhổ cỏ sạch rễ, vạn toàn về sau
Một đao giết nó cho mau
Dưỡng hổ di họa, ngày sau khó lòng !”
Ngụy Tề chẳng nghĩ sâu nông
Lệnh :-“Mau đánh chết, quẳng trong nhà cầu
Từ quan cho chí lính hầu
Luân phiên tiểu tiện lên đầu tội nhân
Đáng đời mi, kẻ phản thần
Nêu gương cho lũ gian nhân soi vào”
Đầy sân vương vãi máu đào (341)
Xương tan thịt nát, cuộn vào chiếu thâm
Hồn trung phách dũng xa xăm
Lững lờ quanh quất, âm thầm phiêu du
Vật dơ nước uế tưới vô
Giật mình lai tỉnh, giả vờ còn mê
Nhục hình chịu đã ê chề
Người người trở lại rượu chè đàn ca
Quân canh còn chú lính già
Phạm Thư khẽ cựa, thiết tha khẩn cầu :
-“Ngụy Tề kết oán quá sâu, (351)
Một khi tan yến lẽ nào chịu dung
Bây giờ nhân lúc tiệc nồng
Giúp ta, ta sẽ dốc lòng đền ơn
Cứu người nghĩa trọng bằng non
Theo chi kẻ ác, tiếng hờn muôn thu
Dẫu xây chín dặm phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người
Vào thưa xác đã bốc mùi
Xin đem vứt bỏ ra nơi cánh đồng
Bấy giờ ta trốn mới xong (361)
Tử sinh hai ngả cậy trông nơi người”.
Lính già nhân hậu cả đời
Yêu người công chính, ghét loài vô lương
Oan mờ trời đất thì thương
Vâng theo kế ấy trọn đường thiện nhân
Ngụy Tề say đã bảy phần
Mải vui không nghĩ xa gần thực hư
-“Mau mau vứt xác Phạm Thư
Xương cho cầy cáo, thịt cho quạ diều
Làm gương răn lũ dân điêu (371)
Thử xem còn dám làm liều nữa không ?”
Được lời như cởi tấc lòng
Đưa ngay bó chiếu ra đồng mà quăng
Lôi lôi kéo kéo lăng xăng
Tay năng hành thiện, lòng vâng ý trời
U minh thiên lý rạng ngời
 Người hiền tất sẽ có người chở che
Lính già cuốn chiếu đem đi
Trời đêm hiu hắt, đường khuya miệt mài
Phạm Thư thoát được nạn tai (381)
Dập đầu bái tạ, ơn tày tái sinh :
-“Xin người cho biết tính danh
Ngày sau báo đáp ân tình hôm nay”
-“Sá gì việc cỏn con này
Mau đi cho chóng thoát tay Ngụy Tề
Kẻ kia vốn dĩ đa nghi
Thế nào cũng đuổi cũng truy đến cùng
Miễn là thoát được lao lung
Ngày sau hội ngộ tương phùng có phen
Gọi ta là “Gã lính quèn” (391)
Là “Người cuốn chiếu”, họ tên quên rồi !”
Chia tay lòng những bồi hồi
Miệng hùm hang sói, thương ôi nghĩa tình
Mới hay áo rách lòng lành
Thẹn thay những kẻ tham danh hại người
Lê thân một quãng đường dài
Máu ra lai láng, khắp người mỏi mê
Kêu to ba tiếng não nề
Phách rời thể xác, hồn lìa nhân gian.
<bài viết được chỉnh sửa lúc 03.07.2008 23:35:34 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 03.07.2008 20:36:14
0
GIẢN CHÚ đoạn 4, trang 26-29
by NGUYỄN PHÚ

PHẠM THƯ LÂM NẠN
 
1-Lâm nạn : vương vòng hoạn nạn, vướng phải tai nạn, mắc nạn
2-Non Đoài : Ngọn núi phía Tây
3-Nhập cung : Vào cung
4-Tướng phủ : Dinh tướng quốc; nghĩa rộng là dinh của một vị tướng nào đó.
5-Ưu tư : Lo âu, nghĩ ngợi
6-Trung dinh : Dinh giữa, dinh chính, toà nhà chính trong dinh (nghĩa khác : doanh trại chính trong quân)
7-Chính điện : Căn phòng chính, nơi dùng để hội họp, hoặc tiếp đãi quan khách, hoặc thờ cúng
8-Công tư nghiêm hình : Dùng hình phạt nghiêm khắc trừng trị cả tội công lẫn tội tư
9-Nội tình : Những tình tiết bên trong, những điều bí ẩn đàng sau một sự kiện nào đó không được nói ra công khai.
10-Ám thông : Lén lút thông đồng, quan hệ với ai.
11-Con ngươi trắng dã : Do câu tục ngữ “Mắt trắng, môi thâm” chỉ những người gian giảo độc ác
12-Lưỡi lằn đẩy đưa : Do câu tục ngữ “Miệng lằn, lưỡi mối” chỉ những kẻ miệng mồm nanh nọc, hay bày đặt chuyện để hại người.
13-Thoát nàn : thoát nạn
14-Nhổ cỏ sạch rễ : (Trảm thảo trừ căn) Nhổ cỏ mà không sạch rễ ắt là cỏ sẽ mọc lại, ý nói làm việc gì cũng phải dứt khoát, làm đến nơi đến chốn, không để phát sinh tai họa về sau.
15-Dưỡng hổ di họa : Nuôi cọp ắt là để lại tai họa về sau. Khi cọp lớn lên, hoặc khi lành vết thương, cọp sẽ vồ mình.
16-Lai tỉnh : tỉnh lại sau một cơn hôn mê.
17-Phù đồ : đường nổi, tức là cầu.  Ca dao có câu :
“Dù xây chín dặm phù đồ,
Không bằng làm phúc cứu cho một người”
Xây đền , dựng chùa, làm đường, bắc cầu ... đều là những việc công quả, làm phúc, giúp người, giúp đời. Nhưng không có việc phúc đức nào to lớn bằng việc “cứu người mắc nạn”.
18-Nhân hậu : đầy lòng nhân ái (yêu người).
19-Công chính : (công bình chính trực) người ngay thẳng, không thiên lệch.
20-Vô lương : (vô lương tâm) không có lòng tốt (Lương : tốt)
21-Thiện nhân : người ăn ở hiền lành, không gian dối độc ác.
22-Dân điêu : những kẻ điêu ngoa, ăn không nói có, ăn đứng dựng ngược, bịa chuyện nói càn nói bậy.
23-Năng hành thiện : Thường xuyên làm việc thiện
24-U minh thiên lý rạng ngời : Trong cõi u minh, ở chốn tối tăm cũng vẫn có lòng trời – Lẽ trời (“Ở hiền gặp lành” chẳng hạn) vẫn sáng ngời, rạng rỡ ở khắp mọi nơi, kể cả ở những nơi tối tăm đầy bất công áp bức.
25-Bái tạ : Vái lạy cám ơn
26-Ơn tày tái sinh : Công ơn này sánh bằng công sinh ra một lần nữa. Ví ngang với công cha mẹ sinh thành ra mình.
27-Lao lung : (Lao : nhà ngục – Lung : chiếc lồng) : Những chốn giam giữ, nơi cầm tù.
28-Hội ngộ tương phùng : gặp lại nhau
29-Miệng hùm hang sói, thương ôi nghĩa tình : Nghĩ mà thương cho người lính quèn có nghĩa có tình, sau khi làm phúc cứu người, không hiểu sẽ ra sao khi trở lại dinh Ngụy Tề, là hang ổ của lũ hùm sói hung ác.
30-Phách rời thể xác hồn lìa nhân gian : Theo quan niệm xưa, trong mỗi người sống có tồn tại “ba hồn bảy vía (phách)”, giúp cho có tri thức, biết hoạt động, không vô tri bất động như cỏ cây gỗ đá. Cả câu có nghĩa là “chết”, hoặc ít ra thì cũng là “bất tỉnh, hôn mê”
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 03.07.2008 20:40:47
0
Lời bàn đoạn 4
by NGUYỄN HỒNG BẢY (H7C)

 
NGƯỜI NGAY MẮC NẠN
 
Ở đời, sẽ chỉ là một điều bình thường thôi nếu kẻ độc ác gian xảo mắc phải nạn tai, việc ấy hợp với logic nhân quả : gieo nhân nào được quả nấy, và “kẻ ác lâm nạn” thường cũng chỉ nhận được hai tiếng “Đáng đời”
 
Khốn thay, kẻ ác lại hiếm khi ... lâm nạn, trong tay một khi đã có dồi dào tiền bạc, thế lực, sức mạnh thì quả là cũng khó mà lâm nạn thật.
 
Ngược lại, kẻ thường xuyên vướng phải trắc trở, rủi ro, tai ương, hoạ kiếp lại chính là những người thân cô thế cô, thấp cổ bé miệng, nghèo khó yếu đuối, thế lực của họ chẳng khác nào thế lực của đứa trẻ lên ba : mỏng manh như bọt bèo, dễ vỡ như bong bóng. Tất cả những tai ương ấy được quy về cho vận số, cho thiên mệnh như một lời giải thích đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu để mà yên lòng ... chấp nhận !!!
 
Đến trường hợp của những người như Nhạc Phi đời Tống, đại tướng chỉ huy cả toàn quân, được nhân dân yêu mến, lòng trung chói lọi như vầng thái dương, dũng khí cao ngất tận trời xanh, tài cầm quân nghiêng sông lật núi ... vậy mà cuối cùng cũng lâm nạn, chịu chết ở Phong ba đình. Có phải là Nhạc Phi thân cô thế cô đâu, có phải là Nhạc Phi thấp cổ bé miệng đâu, sao cũng vương vào tai ương, hoạ kiếp ? Câu giải thích cũng lại được quy về cho ... thiên mệnh !!!
 
Người ngay lâm nạn thường được đại đa số quần chúng nhân dân tỏ ra đồng cảm. Xót xa cho họ mà cũng xót xa cho chính bản thân mình chăng ? Mơ ước “thiên lý phục hồi, nhân quả báo ứng” là mơ ước cho họ mà cũng là mơ ước cho bản thân mình vậy !
 
Phạm Thư, một người tài trí nhưng xuất thân hàn vi, vốn chỉ là một gã xa phu đánh xe cho chủ, giả như nếu cam chịu “Gối rơm theo phận gối rơm, có đâu dưới đất lại chồm lên cao” thì hẳn là đã không ... rách việc ! Tài hoa mà chi, sắc sảo mà chi, để cho chúng nhân ghét ghen, đố kỵ lắm vậy ! Lúc ở Tề, nếu Phạm Thư suy nghĩ theo kiểu Tu Cổ (thấy lợi là vồ ngay lấy), hoặc suy nghĩ theo kiểu Trịnh An Bình (thực tế hơn, ít lý tưởng hoá hơn) thì hẳn là cũng không mắc nạn. Tấm lòng hiếu thảo với mẹ cha, tấc dạ thuỷ chung với quê hương, ý chí chân thành trung quân báo quốc, dẫn tới một hành động TRỞ VỀ. Và vừa về là tức khắc mắc nạn.

Đọc qua những diễn biến ấy, người đời sau không khỏi cảm thấy đôi chút chua xót, bùi ngùi vậy.

Hồng Thất Công
2001

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.11.2008 11:15:30
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

-5-

TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI



Bấy giờ hồn phách chưa tan (401)
Phiêu du vất vưởng giữa ngàn ánh sao
Xót mình tuổi trẻ tài cao
Công danh như thể hoa dâu xuôi dòng
Ơn vua lộc chúa chẳng mong
Tình nhà nợ nước há không báo đền ?
Lại còn vương mối oan khiên
Làm sao mắt trả, răng đền mới ưng !
Hồn bay quanh quất nửa lừng
Nát thân bao quản, thẹn thùng nhơ danh
Giã từ nhân thế chẳng đành (411)
Thôi thì lối cũ quẩn quanh tìm về
Phiêu phiêu nửa tỉnh nửa mê
Tai nghe thánh thót tỉ tê tiếng đàn
Đó đây như khóc như than
Ru hồn lãng tử, xóa tan muộn phiền
Lâng lâng thân xác dịu êm
Chìm vào giấc ngủ, vơi niềm xót xa
Chập chờn, gió thoảng hương hoa
Tiêu thiều réo rắt, tiên nga giáng trần
Dịu dàng an ủi ân cần (421)
Cam lồ rửa sạch mọi phần thương đau
Nâng niu bát cháo hớp rau
Khéo tay chăm sóc, ngọt ngào thuốc thang
Hai tuần cửa mả mở toang
Tử thần lảng vảng, khó phương sinh tồn
Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi dương thế, quỷ môn giã từ
Mở to đôi mắt ưu tư
Vẫn còn văng vẳng ôn nhu tiếng đàn
Sương mơ hư ảo chưa tan (431)
Khói trầm vương vất, mơn man phím ngà
Ngoài song dáng liễu thướt tha
Giật mình còn tưởng tiên nga hôm nào
Hoa đồng cỏ nội thanh tao
Quần bô áo vải má đào vẫn xinh
Rõ ràng ngọc khiết băng thanh
Môi hồng tươi thắm, long lanh mắt huyền
Bờ vai tóc xỏa duyên duyên
Vóc mai lả lướt, gót sen hững hờ
Hỏi rằng :-“Ta tỉnh hay mơ (441)
Cớ sao trôi dạt cậy nhờ nơi đây ?”
Nàng rằng :-“Trải đã bao ngày
Tưởng đâu không thoát khỏi tay tử thần
Xót người tứ cố vô thân
Anh tôi chẳng quản nhọc nhằn cưu mang
Đem về từ cánh đồng hoang
Một lòng chăm sóc, thuốc thang tận tình
Cứu người, công Trịnh An Bình
Nơi đây cách biệt kinh thành rất xa
Gian nhân khó nỗi dò la (451)
Yên lòng tịnh dưỡng ắt là khang ninh
Trước sau một chữ đệ huynh
Giúp nhau cho trọn ân tình mà thôi
Đâu cần cảm tạ đầu môi
Miễn là bằng hữu trọn đời thủy chung
Đạo trời bĩ thái, cùng thông
Bây giờ trước hãy an lòng nghỉ ngơi”
Dứt lời dâng thuốc tận nơi
Phạm Thư uống cạn, ngậm ngùi lòng đau
-“An Bình trí rộng tài cao (461)
Việc xưa đã tỏ, việc sau cũng tường
Bởi ta khinh xuất xem thường
Mới lâm họa hoạn đau thương chuyến này
Bỏ Tề về Ngụy thảm thay
Hết còn khoe giỏi khoe hay dối đời
Làm ơn gọi Trịnh giùm tôi”
Thưa rằng :-“Dạ sắt chưa nguôi nỗi sầu
Nhọc nhằn rừng thẳm khe sâu
Dốc lòng tìm kiếm bới đào nhân sâm
Bôn ba hổ huyệt long đầm (471)
Kể chi khổ trí lao tâm tháng ngày
Buồn vui sướng khổ chia hai
Non cao lầm lũi, miệt mài đường xa
Ở đây còn có cha già
Cần gì cứ gọi Quỳnh Hoa chớ phiền
Bây giờ hãy nghỉ cho yên”
Lời còn thánh thót, gót tiên khuất rồi
Phạm Thư xao xuyến bồi hồi
Bước vào cửa mả, gặp người ôn nhu
Tây hiên lại vẳng tiếng tơ (481)
Khi cao khi thấp, hững hờ nhặt khoan
Khuyên người gặp bước gian nan
Đừng lo, đừng nghĩ, chớ than, chớ sầu
Những người trung nghĩa dãi dầu
Trải bao cực khổ gian lao sá gì
Nhớ chăng gương Bá Lý Hề
Bảy mươi chăn ngựa nuôi dê xứ người
Nhớ chăng Câu Tiễn nằm gai
Phơi sương nếm mật, có ngày nên công
Tấn Văn mười bảy năm ròng (491)
Nắm cơm chẳng có, lưu vong bơ thờ
Ngũ Viên khi mới sang Ngô
Làm người quân tử thập thò bụi lau
Lòng trời nhìn lại cũng mau
Nên vương nên tướng, công hầu kém ai
Đàn ru réo rắt bên tai
Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ
Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,
Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh

Hàn Sĩ Nguyên
<bài viết được chỉnh sửa lúc 25.04.2009 06:43:47 bởi HanSiNguyen >
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 24.11.2008 11:17:49
0
GIẢN CHÚ đoạn 5, trang 29-32
TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI
-by NGUYỄN PHÚ-
 
1-Phiêu du : Nhẹ bồng bềnh dạo chơi đây đó. Bay là đà nơi này nơi khác.
2-Hoa dâu : Bèo hoa dâu, một loại bèo nhỏ xíu, khác với lục bình là một loại bèo lớn.
3-Mắt trả, răng đền : Do câu tục ngữ “Mắt trả mắt, răng đền răng”, ý nói trả thù rửa hận tương xứng với những gì kẻ thù đã gây ra cho mình.
4-Phiêu phiêu : nhe tênh, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.
5-Lãng tử : Người lãng mạn, thích ngao du đây đó.
6-Tiêu thiều : Tiếng tiêu và tiếng nhạc.
7-Cam lồ : (như Cam lộ) giọt sương ngọt, một loại nước phép của Quan Thế Âm Bồ tát, hình thành từ những giọt sương ngọt
-ngào lúc ban mai được hứng lấy và tích chứa trong “Tịnh bình” (bầu nước tinh khiết), có tác dụng cứu khổ cứu nạn, giải tai giải ách, chữa lành mọi vết thương, lại có thể cải tử hồi sinh (cứu sống được cả người đã chết) 
8-Cửa mả mở toang : (sẵn sàng chờ người ta bước vào) ý nói mong manh giữa cái sống và cái chết, suýt chết.
9-Ngoài song dáng liễu thướt tha : Một người con gái dáng mảnh mai thướt tha lướt qua ngoài cửa sổ. (Song : cửa sổ, Dáng liễu : dáng người con gái gầy gầy, mảnh mai như cây liễu
10-Hoa đồng cỏ nội : Người thiếu nữ đẹp ở nơi thôn dã, chốn ruộng đồng.
11-Quần bô áo vải : Người mặc áo may từ vải bông, quần dệt từ đay gai, người mặc những quần áo tầm thường, không sang trọng, ý nói người nghèo
12-Ngọc khiết băng thanh : Viên ngọc thuần khiết (không một vết trầy sước), tảng băng trong vắt (không lẫn tạp chất).
13-Xỏa : Rủ xuống, lả xuống 
14-Xõa : tung ra, xoè ra.
15-Vóc mai : Thân gầy như cây mai, mảnh khảnh như hoa mai
16-Gót sen : Gót chân đỏ hồng của một cô gái nhỏ hoặc của một người thiếu nữ xinh đẹp, không phải lao động cực nhọc.
17-Tứ cố vô thân : Đơn độc, trơ trọi một mình, không có ai là người thân cả.
18-Cưu mang : Gánh đỡ, bảo bọc, nâng đỡ cho ai đó qua khỏi lúc khó khăn, hoạn nạn
19-Thuốc thang : cũng như “thuốc men”
-Thuốc : chất trị bệnh
-Thang : chất dẫn thuốc, làm men xúc tác cho thuốc đạt hiệu quả nhanh hơn, cao hơn
20-Tịnh dưỡng : Nghỉ ngơi yên tĩnh
21-Khang ninh : Mạnh khoẻ, an toàn
22-Đệ huynh : cũng như “huynh đệ” nghĩa là anh em.
Các tục ngữ thành ngữ liên quan :
-Tứ hải giai huynh đệ : [Người khắp] bốn biển đều là anh em
140
-Huynh đệ như thủ túc / Phu thê như y phục : Anh em như tay chân trong cùng một cơ thể (không thể chia lìa) / Vợ chồng như áo quần (có thể bỏ đi, thay bộ khác được). Ý vế sau của câu này chỉ muốn nói “vợ chồng ăn ở với nhau không phải đạo” có
thể bỏ nhau tỷ như thay bộ quần áo khác, chứ không hề có ý khuyến khích vợ chồng bỏ nhau.
23-Bằng hữu : Bạn bè thân thuộc
24-Thủy chung : Trước sau như một, không thay lòng đổi dạ
25-Bĩ thái : Từ câu “Bĩ cực thái lai” nghĩa là khổ hết mức, khổ đến cùng cực rồi thì cái ung dung, thư thái, nhẹ nhàng lại đến.
26-Cùng thông : Từ câu “Cùng tắc bĩ, bĩ tắc biến, biến tắc thông” nghĩa là “Khổ ắt là sẽ khổ thêm đến cùng cực, Khổ đến cùng cực rồi thì sẽ có thay đổi, Thay đổi ắt là sẽ thông, sẽ hết bế tắc, hết khổ”.
Ý cả 2 cụm từ “Bĩ thái”, “Cùng thông” cũng giống hệt như câu “Khổ tận cam lai” (Đắng hết mức đắng rồi thì cái ngọt sẽ đến).
27-Khinh xuất : Sơ xuất (sơ ý) xem thường (coi nhẹ, đánh giá thấp) một điều gì đó hoặc một người nào đó.
28-Lâm hoạ hoạn : Vướng vào tai nạn, mắc nạn.
29-Nhân sâm : Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.
30-Bôn ba : Rày đây mai đó, long đong trôi nổi khắp chốn.
31-Hổ huyệt long đầm : Hang cọp, đầm rồng , ý nói những nơi nguy hiểm, dễ mất mạng.
32-Khổ trí lao tâm : cả tim lẫn óc đều cực nhọc vất vả vì lo nghĩ, tính toán, sắp đặt công việc
33-Lầm lũi : cắm cúi đi, chăm chú làm một việc nào đó, không chú ý gì đến chung quanh.
34-Miệt mài : mê mải, mải miết, cố làm cho xong.
35-Gót tiên : gót nàng tiên, gót chân người đẹp
36-Bước vào cửa mả : Sắp chết, lúc gần chết
37-Ôn nhu : Hiền hoà, dịu dàng
38-Tây hiên : nhà phía tây, căn phòng phía tây, chái nhà phía tây, mái hiên của căn nhà bên tay trái ngôi nhà chính
39-Tiếng tơ : tiếng đàn (dây đàn làm bằng tơ)
40-Nhặt khoan : lúc thì gấp rút dồn dập (nhặt) ; lúc thì thong thả chậm rãi (khoan)
41-Bá Lý Hề : Nhân tài kiệt xuất thời Xuân thu. Xuất thân cực kỳ nghèo khổ. Bôn ba qua nhiều nước Ngu, Tấn, Sở nhưng ở đâu cũng ba chìm bảy nổi, thậm chí còn nhiều lần bị tù tội, giam cầm, đày ải. Đến năm 70 tuổi vẫn còn phải chăn dê chăn ngựa ở Sở. Vua Tần là Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) biết là người hiền, sai người đem 5 cỗ da dê sang Sở xin chuộc Bá Lý Hề về để vua Tần ... trị tội. Sở vương không biết mưu ấy, cho Bá Lý Hề về Tần. Vua Tần lập tức phong Bá Lý Hề làm thừa tướng, người đời sau nhân sự tích ấy gọi Bá Lý Hề là “Ngũ Cổ đại phu” (vị quan 5 cỗ da dê). Ông có công khuếch trương nước Tần từ vị trí là một nước nhỏ yếu trở thành một chư hầu hùng mạnh, giúp Tần Mục công trở thành vị bá chủ thứ ba trong Ngũ bá sau Tề Hoàn công và Tấn Văn công.
42-Câu Tiễn : vua nước Việt (nước Việt này là nước Việt cổ, ở tại lưu vực sông Dương Tử, phía nam nước Ngô). Câu Tiễn thua trận bị vua Ngô Phù Sai bắt cầm tù nhiều năm. Câu Tiễn phải nén lòng chịu nhục, bề ngoài tỏ ý khuất phục đầu hàng Phù Sai, bề trong  âm thầm tính kế phục quốc. Những năm tháng bị giam giữ ở Cô Tô thành (kinh đô nước Ngô), Câu Tiễn phải trải qua vô vàn cực nhục : phơi sương (ngủ ngoài trời), nằm gai (nằm trên đống gai nhọn để nhắc nhở mình không được quên nỗi nhục mất nước), nếm mật (nếm phân vua Ngô). Phù Sai thấy thế khinh thường, cho rằng Câu Tiễn là kẻ hèn kém, không có gì đáng quan ngại, bèn cho phép trở về nước Việt. Sau Câu Tiễn theo kế sách của đại phu Văn Chủng, đem Tây Thi hiến dâng Phù Sai, khiến cho vua này mê đắm nữ sắc, lơ là việc quân, việc nước. Cuối cùng, Câu Tiễn bất ngờ hạ thành Cô Tô, giết chết Phù Sai, diệt được nước Ngô.
43-Nếm mật : Nếm chất đắng, nếm phân vua Ngô, để bày tỏ lòng trung thành với Phù Sai, lừa cho vua Ngô khinh thường.
44-Tấn Văn : Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn. Khi Tấn có loạn, Trùng Nhĩ phải lưu vong qua nhiều nước suốt 17 năm trường, cực khổ gian lao đủ kiểu đủ cách, có lúc đến một nắm cơm ăn cũng không có. Bề tôi trung là Giới Tử Thôi phải cắt bắp chân mình lấy thịt cho vua ăn. Sau về nước cải cách nhiều việc, dùng Khước Khuyết, rồi Tiên Trẩn làm tướng, lần lượt đánh bại đại quân Sở và Tần, trở thành bá chủ chư hầu. Đó là Tấn Văn công, vị bá chủ thứ nhì sau Tề Hoàn công.
45-Lưu vong : chạy sang nước khác lánh nạn, sau khi mất nước.
46-Ngũ Viên : tức Ngũ Tử Tư người nước Sở. Cha và anh của Ngũ Viên bị vua Sở Bình vương nghi kỵ, vô cớ giết chết. Ngũ Viên đau lòng quá chỉ trong một đêm mà đầu tóc đều bạc trắng, ôm mối căm hờn chạy trốn sang nước Ngô. Quân Sở truy đuổi đến bờ sông, Ngũ Viên phải ẩn mình trong khóm lau ven sông, may nhờ một lão thuyền chài cứu giúp đưa sang sông mới thoát nạn. Ngũ Viên được gọi là “người quân tử trong bụi lau” là vì tích ấy. Sau Ngũ Viên làm quan tướng quốc nước Ngô, cùng với Tôn Vũ diệt được nước Sở. Ngũ Viên sai đào mồ Sở Bình vương lên, lấy roi đánh vào xác vua Sở để trả thù cho cha và anh. Lúc cuối đời, vua Ngô Phù Sai không tin dùng nữa, Ngũ Tử Tư ôm hận mà chết.
47-Kỳ hương : những mùi hương thơm kỳ lạ
48-Dị thảo : Cỏ lạ
49-Bách hoa : Trăm hoa
50-Ý 2 câu cuối : Giữa tất cả những mùi hương thơm, những loài cỏ lạ, những giống hoa quý trên khắp thế gian này, Phạm Thư trong giấc mơ chỉ mơ thấy hoa ... Quỳnh mà thôi ! Ý ngầm là chỉ yêu mến có một mình Trương Quỳnh Hoa mà thôi !
 
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 25.04.2009 06:42:33
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ


Đàn ru réo rắt bên tai
Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ
Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,
Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh



oOo

-6-


ÂN TÌNH RỪNG MAI



Râm ran gà gáy bình minh (501)
Oang oang có tiếng An Bình ngoài sân :
-“Nhân sâm kiếm được vài cân
Bấy nhiêu cũng đủ dăm tuần phục đan
Trời xanh thương kẻ ức oan
Khiến cho cây cỏ những toan tìm người”
Quỳnh Hoa kể vội mấy lời
Người trong nhổm dậy, kẻ ngoài mừng rơn
Nắm tay thuật rõ nguồn cơn
Những ngày ngậm tủi nuốt hờn đã qua
Tránh xa nanh vuốt ác tà (511)
Trở về đất tổ quê cha nương nhờ
Trương lão vốn bậc y sư
Giàu lòng nhân đức, ẩn cư núi này
Quỳnh Hoa em gái mát tay
Khiến nên tráng sĩ có ngày tái sinh
Thư rằng :-“Tình đã trọn tình
Nghĩa đà vẹn nghĩa, tử sinh ghi lòng
Vụng suy, suýt nữa thân vong
Một thân cái thế mắc vòng đào sanh
Trăm khôn một dại đã đành (521)
Biết vầy ở lại đáp tình Tề vương”
Bình rằng:-“Chớ vội lo lường
Bây giờ trước phải tìm phương phục hồi
Mai này khoẻ mạnh lại rồi
Bấy giờ ta sẽ liệu bài sang Đông
Tề vương nghĩa khí, uy hùng
Vua tôi nước ấy thực lòng mến ta
Rồng mây cá nước duyên ưa
Gặp thời khanh tướng, phải cơ vương hầu
Lẽ đời hung trước cát sau (531)
Kinh luân đầy bụng, âu sầu mà chi”
Thư rằng :-“Ám muội bất vi,
Kẻ kia buộc tội thông Tề bội quân
Bây giờ sang đó tiến thân
Mười phần xác nhận gian nhân đủ mười
Tiểu nhân đắc chí cả cười
Tự hào ngậm máu phun người không dơ
Đau đòn rồi lại thấp cơ
Truyền lưu hậu thế tiếng nhơ muôn đời
Ngày nay cơ sự đã rồi (541)
Xét trong năm nước ai người dung ta ?
Triệu, Hàn, Yên, Sở quá xa
Ngẫm đi nghĩ lại phải qua Tây Tần
Dễ dàng khởi nghiệp, tiến thân
Thuận thiên đắc địa, quốc quân oai hùng
Sang Tề, ở Ngụy không xong
Lẽ nào bó gối đợi trông Tử thần
Có thân phải sớm liệu thân
Một lần vụng tính, muôn phần đắng cay
Đổi tên Trương Lộc từ nay (551)
Phạm Thư đã chết dưới tay Ngụy Tề
Kể như dụng tốt, thí xe
Ẩn thân xó núi, đợi khi sang Tần”
An Bình vâng dạ dời chân
Trong lòng cảm phục trí nhân hơn người
Vó câu song cửa thoảng trôi
Thẹn thùa hoa trổ, bồi hồi mộng ươm
Lửa nồng tất phải bén rơm
Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường
Y sư Trương lão mến thương (561)
Gả cho con gái, vẹn đường thất gia
Quỳnh Hoa e ấp chúc hoa
Tàng long Trương Lộc thoắt đà thừa long
Nửa năm tình mặn nghĩa nồng
Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng
Vai kề má tựa ung dung
Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.


Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 25.04.2009 06:48:38
0

GIẢN CHÚ đoạn 6, trang 33-35
by NGUYỄN PHÚ


ÂN TÌNH RỪNG MAI

1-Nhân sâm : Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.
2-Phục đan : Uống thuốc, cho người uống thuốc. Thuốc Đông y, ngoài thuốc nước dưới dạng thang được sắc (nấu ninh trên lửa nhỏ), còn có 4 dạng khác là cao, đơn, hoàn, tán nữa :
-Cao : Thuốc dán
-Đơn (đan) : viên tròn nhỏ như hạt đậu xanh
-Hoàn : viên thuốc lớn cỡ đầu ngón tay cái, được bọc trong khối sáp tròn
-Tán : Thuốc dạng bột
Ý 2 câu
“Trời xanh thương kẻ ức oan,
Khiến nên cây cỏ những toan tìm người” :
Vì trời xanh cũng thương Phạm Thư vô tội phải chịu ức oan, nên khiến cho Trịnh An Bình dễ dàng tìm thấy nhân sâm, như thể nhân sâm tự đi tìm Trịnh An Bình mà dâng nộp vậy.
3-Y sư : Người giỏi nghề thuốc
(Sư : người tài giỏi, bậc thầy : master)
4-Ẩn cư : ở ẩn, không hơn thua, không tranh giành danh lợi với đời.
5-Tử sinh ghi lòng : Dẫu sống hay chết vẫn luôn ghi nhớ trọn đời.
6-Thân vong : Mất mạng, chết.
7-Cái thế : (Anh hùng, tài giỏi) bậc nhất trên đời.
8-Đào sanh : Chạy trốn tìm đường sống.
9-Tìm phương phục hồi : Tìm cách (chữa bệnh, dưỡng bệnh) cho mạnh khỏe lại như trước.
10-Nghĩa khí, uy hùng : Có đủ các đức tính “Trọng tình nghĩa, có chí khí, có oai phong, hào hùng”
11-Rồng mây cá nước duyên ưa : “Rồng lên mây”, “cá gặp nước” là các hình ảnh chỉ người có tài gặp thời cơ thuận lợi để có thể dễ dàng tiến thân.
12-Cát hung : Như “Kiết hung” nghĩa là may mắn, và hung hiểm. Tục ngữ :
-Tiền hung hậu kiết : Trước gặp hiểm nghèo, sau lại hóa ra may mắn.
13-Kinh luân : Nghĩa theo từ nguyên :
-Kinh : sợi tơ
-Luân : chập các sợi to thành từng bó riêng rẽ
-Kinh luân : Công việc quản lý, cắt đặt, sắp đặt mọi sự
thành từng mục riêng biệt cho dễ quản lý. Nghĩa tổng quát là “tài tổ chức, sắp đặt về mặt chính trị”.
-Kinh bang tế thế (nói tắt “Kinh tế”) : quản lý, sắp đặt trông coi việc nước cốt để giúp đời
14-Ám muội bất vi : Việc lén lút quyết không làm
15-Thông Tề bội quân : Lén lút tư thông với nước Tề, phản bội lại vua Ngụy
16-Thuận thiên đắc địa : Thuận theo, xuôi theo ý trời (tức ý dân), được lợi thế về đất đai phì nhiêu nhưng hiểm yếu.
17-Gạo ninh thủy hỏa : Gạo bỏ vào nồi nước nấu ninh lâu trên lửa (tất sẽ thành ... cơm). Ý 2 câu :
“Lửa nồng tất phải bén rơm
Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường”
“Gạo ninh thủy hỏa”, “Lửa gần rơm lâu ngày phải bén”, “Ván đã đóng thuyền”, đều có chung một ý là “Trai gái gần nhau lâu ngày tất phải bén duyên, sinh lòng yêu thương, gần gũi với nhau”, đó là lẽ thường tình ở đời.
18-Chúc hoa : Đuốc hoa, ngọn đuốc đốt lên trong đêm tân hôn.
19-Tàng long : Con rồng ẩn (nơi đáy giếng), chỉ người có tài chưa gặp thời, còn lăn lóc trong chốn hàn vi.
20-Thừa long : cưỡi rồng, ý nói cưới được vợ danh giá, quý phái. Từ này xuất xứ từ điển tích “Tiêu Sử thừa long”. Tiêu Sử người thời Xuân thu, vốn nghèo khổ, có tài thổi sáo, được Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) yêu mến. Sau Tiêu Sử cưới được Lộng Ngọc, 2 vợ chồng cưỡi rồng bay lên trời vĩnh hưởng tiên phúc.

Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 26.04.2009 06:46:33
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Nửa năm tình mặn nghĩa nồng
Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng
Vai kề má tựa ung dung
Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.


oOo

-7-


VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN



Nói về yết giả Vương Kê
Cầm đầu sứ bộ tiến về Ngụy đô
Tần vương sớm đã mưu mô (571)
Giả vờ đòi đất, thăm dò phân minh
Quân cơ, chính sự, giáp binh
Thử xem chuẩn bị chiến tranh thế nào
May ra gặp kẻ tài cao
Mau mau tiến dẫn về đầu Tần vương
Ngụy mà khinh xuất xem thường
Thừa cơ mở rộng biên cương nước Tần
Vương Kê ở lại vài tuần
Tỏ tường trong đục, giả chân rạch ròi
Bao nhiêu đường sá sông ngòi (581)
Kho tàng doanh trại gộp nơi dư đồ
Lắng nghe nghịch đảng mưu mô
Cười thầm nước Ngụy cơ đồ tất vong
Bấy giờ mọi việc đã xong
Sứ đoàn Tần quốc ung dung ra về
Vượt qua muôn dặm sơn khê
Bỗng dưng thấy giữa đường đi có người
Nón mê, hài cỏ, áo tơi
Chắn ngang chính lộ, ngả người thong dong
Quan quân quát tháo mặc lòng (591)
Giả vờ mê ngủ, tịnh không ngó ngàng
Tam Đình cương, tiếng ngáy vang
Vương Kê thấy lạ vội vàng xuống xe
Chắc là kẻ sĩ dị kỳ
Khoanh tay lễ độ, trọn bề khiêm cung
Chốn này phục hổ tàng long
Cao nhân ẩn sĩ thử lòng khách du ?
Ba lần hỏi, giả làm ngơ
Trước sau vờ vĩnh pho pho ngáy đều
Gió đưa râu bạc phiêu phiêu (601)
Phơ phơ tóc trắng, ra chiều tiên nhân
Bất ngờ sải cánh duỗi chân
Than rằng :-“Một lũ quân thần không ngươi,
Để cho lá mục chôn vùi
Hiền tài mai một, đất trời ủ ê
Khắp trong hai cõi Ngụy, Tề
Chẳng ai đáng mặt một vì minh quân !”
Vương Kê xao xuyến phân vân
Chắp tay ra mắt cao nhân, ngỏ lời :
-“Thành tâm cung kính rước mời (611)
Sang Tần trị quốc, cứu đời, an dân”
Người cười :-“Khéo nói dần lân
Lão đây nào phải hiền thần mà mong
Mai Lâm, thủy tận sơn cùng,
Nếu quan biệt giá sẵn lòng đến chơi
Cũng xin ra sức với người
Dẫn đi cho gặp nhân tài họ Trương
Dễ dàng tranh bá đồ vương
Tận trung báo quốc, danh dương muôn đời
Cầm bằng chẳng muốn thì thôi !” (621)
Nói xong quay gót, nhất thời toan đi
Vương Kê vội vã nằn nì
Lệnh cho quân sĩ dừng xe bên đàng
Xá nhân vội vã gióng hàng
Lòng thành lễ trọng bái trang hiền tài
Băng rừng, vượt suối, qua đồi
Thoắt đà đến trước rừng mai bạt ngàn
Suối khe róc rách miên man
Đó đây vang vọng tiếng đàn chơi vơi
Rừng hoa thoảng tiếng ai cười (631)
Lão nhân dừng bước trước đài liên hoa :
-“Hiền thần vốn thực rể ta,
Họ Trương tên Lộc, ấy là kỳ nhân
Xin quan biệt giá dừng chân
Trà sen rượu cúc tẩy trần đường xa
Xem như huynh đệ một nhà”
Dứt lời Trương lão mời qua thạch bàn
Quỳnh Hoa lo liệu cỗ bàn
An Bình tiếp xá, rượu tràn Tây hiên
Vương Kê thực dạ cầu hiền (641)
Ngồi cùng Trương Lộc huyên thiên chuyện trò
Mấy lời vàng đá phân phô
Trí mưu xuất chúng, tâm cơ hơn người
Ba tuần rượu ngọt nếm môi
Mới quen, sao thấy như người cựu giao
Pháp binh quỉ khấp thần sầu
Kinh bang, chính trị, ngoại giao gồm tài
Tây Tần dễ có mấy ai
Khắp trong thiên hạ bao người dám so
Kém gì Ngũ cổ đại phu (651)
Hàm Dương chung đỉnh chẳng lo thiếu phần
Trương rằng :-“Cũng muốn sang Tần
Đem tài ra giúp thánh quân phen này
Chỉ e cô nhạn lẻ bầy
Một thân đơn độc, trói tay trăm chiều
Vua Tần nếu thực mến yêu
Xin cho họ Trịnh cùng theo về Tần
Người này sức địch vạn quân
Lại thêm mưu lược, trí nhân hơn đời”
Vương rằng:-“Cầu một được hai, (661)
Lẽ nào còn dám vật nài kêu ca
Phu nhân cùng với lão gia
Cùng đi một chuyến, cả nhà thêm vui”
Trương lão cất tiếng cả cười :
-“Có đâu gần đất xa trời tội vương,
Lẽ nào rời bỏ quê hương ?
Thân tàn chẳng muốn vùi xương xứ người !
Mai Lâm vinh nhục cả đời
Một mai nhắm mắt rừng mai là mồ
Tiền đồ con hãy gắng lo (671)
Cố hương mỏi mắt đợi chờ vinh quy
Bao năm theo nghiệp lương y
Chắt chiu công đức ngại gì ngày sau
Hương lân sớm tối có nhau
Chẳng lo đói rét, chẳng sầu đơn côi”
Quỳnh Hoa nước mắt tuôn rơi
Lấy chồng tất phải trọn đời tòng phu
Quản chi cơ cực đói no
Chỉ thương thân phụ bơ vơ dãi dầu
Cha con nương tựa bấy lâu (681)
Nỡ nào ngoảnh mặt quay đầu mà đi ?
Trương Lộc lặng lẽ tính suy :
-“Ngày nay hiếu nghĩa khó bề vẹn hai
Thôi nàng ở lại rừng mai
Còn ta rong ruổi đường dài xa quê
Nhớ nhau trông ánh trăng thề
Người đi vạn dặm vẫn kề đầu song
Bao giờ đại sự thành công
Bấy giờ võng tía kiệu hồng đón đưa
Viễn quy thỏa nỗi mong chờ” (691)
Quỳnh Hoa cảm tạ, gấp lo đăng trình
Đêm tàn, dưới mái nhà tranh
Vợ chồng thủ thỉ ân tình keo sơn :
-“Còn trời còn nước còn non
Trước sau suối lại về nguồn mà thôi
Đừng buồn bã nữa em ơi
Chẳng bao lâu sẽ nối lời ái ân !”
Chia ly phút đã tới gần
Luyến lưu ruột xót, tần ngần lòng đau
Thiên cơ huyền bí nhiệm mầu (701)
Sinh ly tử biệt biết đâu ý trời ?
Giọt sầu tầm tã tuôn rơi
Yêu thương nói chẳng cạn lời yêu thương !
Trời vừa rạng sáng tinh sương
Quỳnh Hoa khép nép ven đường tiễn đưa
Nói bao nhiêu cũng chưa vừa
Bao nhiêu nước mắt cũng chưa thỏa lòng
Một ngày nên nghĩa vợ chồng
Ngàn thu ghi tạc thuỷ chung xứ này
Tạ ơn cha đã an bài (711)
Tạ ơn nương tử những ngày bên nhau
Mai sau đoạt ấn vương hầu
Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?

Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 26.04.2009 06:50:02
0
GIẢN CHÚ đoạn 7, trang 35-39
VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN

-by Nguyễn Phú-

1-Cầu hiền : Dùng lễ trọng để thỉnh mời người hiền tài ra giúp nước.
2-Yết giả : một chức quan trong nội cung, phụ trách việc tiếp tân (tiếp khách)
3-Dư đồ : Tấm bản đồ
4-Sơn khê : Núi và khe
5-Nón mê, hài cỏ, áo tơi : Các trang phục của người nghèo, người bình dân
-Nón mê : Nón có chóp tròn nhỏ, rộng vành, đan bằng tre trúc.
-Hài cỏ : Giày bện bằng cỏ (loại cỏ bền dai như cỏ bàng chuyên đan bao đệm ở nước ta)
-Áo tơi : Áo kết bằng rơm hoặc cỏ tranh thành tấm, để khoác ngoài che mưa gió, sương tuyết.
6-Chính lộ : Đường chính.
7-Thong dong : Ung dung, thoải mái
8-Tịnh không ngó ngàng : Tuyệt nhiên không để ý, không ngó ngàng gì đến mọi việc xảy ra ở chung quanh.
9-Tam Đình cương : Gò Tam Đình.
10-Khiêm cung : Cung kính, nhã nhặn, khiêm tốn.
11-Phục hổ tàng long : Rồng ẩn cọp nấp. Ý nói “Có nhiều nhân tài không ra mặt, giấu mình trong bóng tối”
12-Khách du : Khách qua đường, khách đi dạo chơi.
13-Phiêu phiêu : Nhẹ hều, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.
14-Sải cánh : Dang rộng đôi cánh, duỗi thẳng hai tay.
15-Quân thần không ngươi : Vua quan đều có mắt không tròng, có mắt như mù.
16-Hiền tài mai một : Người có tài có đức phải chịu chôn vùi (mai), mất đi (một).
17-Minh quân : Vua sáng, vua hiền, vua tốt.
18-Hiền thần : Bầy tôi giỏi, có tài có đức.
19-Thủy tận sơn cùng : Ở chốn xa xôi, cùng trời cuối đất.
20-Quan biệt giá : Viên quan được vua sai phái đi làm nhiệm vụ đặc biệt (Như “Khâm sai”)
22-Tranh bá đồ vương : Tranh giành chức vị bá chủ chư hầu, mưu toan việc giành giật ngôi vua.
23-Tận trung báo quốc :Hết lòng trung báo đền ơn nước
24-Xá nhân : Thời xưa, trong nhà những quan to, các nhà giàu, các quý tộc thường có nuôi ăn ở 3 lọai người khác nhau :
-Gia nhân : Người giúp việc, làm những công việc lao động chân tay thường nhật trong nhà. Được trả công.
-Xá nhân : Người khách được nuôi ăn và cho trú ngụ thường trực ở trong nhà, tùy sức mình mà tự nguyện giúp việc cho chủ. Không bị đòi hỏi phải làm gì, cũng không được trả công. Địa vị vẫn là khách, cao hơn gia nhân.
-Môn khách : Xá nhân cấp cao.
Mạnh Thường quân nước Tề, Bình Nguyên quân nước Triệu, Tín Lăng quân nước Ngụy, Xuân Thân quân nước Sở v.v ... trong nhà thường có đến 3000 tân khách (Xá nhân + Môn khách).
25-Bái trang hiền tài : Đến viếng trang trại, vái chào bậc hiền tài.
26-Bạt ngàn : Mênh mông.
27-Đài liên hoa : Đài hoa sen, tháp nhỏ thờ Phật hoặc các vị Bồ tát.
28-Kỳ nhân : Người có tài kỳ lạ, khác thường.
29-Tẩy trần : Rũ sạch bụi, Phủi sạch bụi, Rửa sạch bụi (do phải đi đường xa lâu ngày).
30-Thạch bàn : Bàn làm bằng đá.
31-Tây hiên : Mái hiên phía Tây, chái nhà phía Tây, căn nhà phía Tây.
32-Trí mưu xuất chúng, tâm cơ hơn người : Mưu trí, kế sách, cách sắp đặt, xử lý công việc đều trội hơn mọi người.
33-Cựu giao : người quen biết cũ.
34-Kinh bang, “Kinh bang tế thế”, “Kinh tế” : Quản lý coi sóc
việc nước (cốt để cứu đời)
35-Pháp binh quỷ khấp thần sầu : Tài năng chính trị, quân sự đều giỏi đến mức quỷ phải than khóc, thần phải buồn bực, (vì không thể sánh bằng, không thể chống lại được).
36-Ngũ cổ đại phu : Đại phu 5 cỗ da dê, tức Bá Lý Hề, thừa tướng nước Tần thời thịnh trị của Tần Mục công.
37-Chung đỉnh : Cái đỉnh (nồi) và cái vạc, chuyên dùng để nấu thịt trong sân đình vua chúa. Chỉ những miếng mồi ngon, những lợi lộc do quan trường đem lại.
38-Thánh quân : Vua thánh, vua giỏi có tài và có đức độ
39-Cô nhạn lẻ bầy : Con nhạn lẻ, tách ra khỏi đàn.
40-Sức địch vạn quân : Sức chống lại được cả vạn người.
41-Tiền đồ : Con đường công danh sự nghiệp trước mặt.
42-Vinh quy : Về làng, về quê trong sự vinh hiển.
43-Lương y : Thầy thuốc giỏi, thầy thuốc tốt.
44-Hương lân : Hàng xóm láng giềng nơi quê nhà.
45-Tòng phu : Theo chồng
46-Đại sự thành công : Việc lớn (việc kiến công dựng nghiệp) thành công.
47-Viễn quy thỏa nỗi mong chờ : Người đi xa về, là một nỗi mừng lớn lao, cũng thỏa lòng chờ mong.
Tục ngữ có câu “Tân thú bất như viễn quy”, nghĩa là “ Vợ chồng mới cưới hạnh phúc chẳng bằng một người đi xa về”
48-Cảm tạ : Cám ơn
49-Ân tình keo sơn : Tình nghĩa vợ chồng quyến luyến nhau, dính chặt như keo, như sơn, khó nỗi chặt đứt được.
50-Thiên cơ huyền bí nhiệm mầu : Lẽ trời bí mật, con người không thể biết trước được điều gì sẽ xảy đến trong tương lai.
51-Sinh ly tử biệt : Xa nhau lúc sống, chia lìa nhau vì cái chết.
52-Ngàn thu : ngàn năm, mãi mãi.
53-Thủy chung : Trước sau như một, không thay đổi lòng dạ.
54-An bài : Sắp đặt chu đáo mọi việc.
55-Nương tử : Tiếng gọi “vợ”
56-Đoạt ấn vương hầu : Giành được ấn (con dấu) vương hầu, tức là được phong tước “vương, hầu”
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 28.04.2009 01:26:29
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Mai sau đoạt ấn vương hầu
Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai
Người đi, người đã đi rồi
Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?


oOo

-8-

PHẠM THƯ SANG TẦN



Băng ngàn vượt suối mải mê
Vầng dương le lói, trăng khuya la đà
Gióng cương trực chỉ Tây Hà
Tần kề một bước, Ngụy xa ngàn trùng
Rừng mai khuất đám bụi hồng (721)
Lửa hương se thắt chạnh lòng mà đau
Băng băng xe lướt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt khơi sầu chinh nhân
Xa xa thấp thoáng non Tần
Biết bao gian khổ khó khăn sẵn chờ :
-“Mảng nghe, Tần chẳng có vua !
Thái hậu nhiếp chính, ầu ơ điện tiền
Nhương hầu tung hứng nghịch thiên
Hoa Dương thế lớn đảo điên cung đình
Gian nhân kết đảng lộng hành (731)
Dối trên lừa dưới, chông chênh miếu đường
Tam đầu oai trấn Hàm Dương
Đa nghi, chuyên chế, nhiễu nhương nước nhà
Đỉnh chung, chân vạc chia ba
Tần vương ngồi đó chỉ là hình nhân
Dẫu rằng chí muốn hưng Tần
Chẳng qua pho tượng nhận phần tung hô
Chuột bầy đục khoét của kho
Càng buồn, càng ngẫm, càng lo, càng sầu
Quyền rơm biết tính làm sao (741)
Ôm cằm, bó gối, cúi đầu, khoanh tay
Triều đường rặt những cáo cầy
Xương khô trong mả múa may cung đình
Thằng hề, con rối hiển vinh
Người rơm áo mão, bù nhìn cân đai
Đui mù ra dáng hiền tài
Giả câm giả điếc lộc trời đầy no
Chung quanh lục quốc rình chờ
Rõ ràng thế nước bên bờ vực sâu
Hỏi quan biệt giá nghĩ sao ?” (751)
Vương Kê hết vía, gục đầu thất kinh :
-“Cớ sao thông tỏ nội tình ?
Mọi điều phân tích rành rành chẳng sai !
Tinh thông thuật số mà hay
Hoặc là thần nhãn, có tài nhìn xa ?”
Lộc cười :-“Trong đạo binh gia
Việc đầu tiên, phải biết ta biết người
Thông tin quán triệt nơi nơi
Lão thông địa lý, thiên thời, nhân tâm,
Lược thao, cơ số, lục nhâm (761)
Nội tình liệt quốc thảy nằm trong tay !”
Vương rằng :-“Sự thể ngày nay
Làm sao thoát khỏi nạn tai gần kề ?
Rửa tai cung kính xin nghe”
Lộc rằng :-“Kế lớn khó bề giải phân
Vô mưu sao dám sang Tần
Thân vào hổ huyệt cam phần thịt tươi ?
Vua Tần nếu quyết dùng tôi
Ắt là trừ được ba ngôi lộng quyền
Dụng nhân mà dụng không chuyên (771)
Để cho kẻ xấu nói dèm, uổng công
Bao giờ đến trước ngai rồng
Bấy giờ sách lược mới mong tỏ bày !”
Xa xa mù mịt khói mây
Trống khua chuyển đất, cờ bay tung trời
Nhương hầu đang lúc rong chơi
Tiền hô hậu ủng ngời ngời dung quang
Kỵ binh mở lối dẹp đường
Tàn hồng, tán tía, lọng vàng uy nghi
Lộc rằng:-“Kẻ ấy đa nghi (781)
Không ưa khách tướng cận kề long nhan
Tránh voi, tránh trước cho an
Tiểu tâm nhiễu sự, nghi nan lụy mình !”
Dứt lời cùng với An Bình
Chui vào bao bố, giấu mình trong xe
Loan xa thoắt đã cận kề
Nhương hầu gặng hỏi Vương Kê đủ điều :
-“Biện sĩ là lũ dân điêu
Mồm loa mép giải ra chiều thánh nhân
Chớ đem lũ ấy vào Tần (791)
Khua môi múa mép thêm phần rối ren !”
Vương Kê vâng dạ cho yên
Tạ từ lui gót, thẳng miền Hàm Dương
Một lòng kính phục họ Trương
Trăm điều tiên liệu, tinh tường đủ trăm
Bấy giờ Lộc lại bảo thầm :
-“Nhương hầu kế xảo, mưu thâm cả đời
Có điều tính chậm hơn người
Xe chưa khám xét, chưa thôi ý tà
Thế nào cũng đuổi theo ta (801)
Chi bằng gấp rút chia ra hai đường
Biệt giá đi thẳng Hàm Dương
Tôi tìm lối rẽ, tắt đường mà đi
Khám xe tất chẳng thấy gì
Bấy giờ tụ hội cùng về mới xong”
Vương Kê thực đã tin lòng
Chia tay đôi ngả, bụi hồng đôi nơi
Quả nhiên lốc xoáy mù trời
Kỵ binh thoắt đuổi đến nơi hét hò :
-“Khám xe ! Bắt kẻ cuồng đồ (811)
Chớ cho ngoại chủng lọt vô nước Tần !”
Khám đi xét lại mấy lần
Cuối cùng tưng hửng, tần ngần mà đi
Xá nhân cho chí Vương Kê
Thảy đều thán phục tài nghề họ Trương
Rõ là hào kiệt phi thường
Xét người tính việc tỏ tường tinh anh
Chờ nhau chưa quá nửa canh
Ung dung xe ngựa nhập thành Hàm Dương
Tạm về dinh thự họ Vương (821)
Bồ đào rũ sạch bụi đường bấy lâu
Của ngon vật lạ dâng hầu
Lại cho con cháu dập đầu bái sư
Vương Cung, Vương Kiếm bấy giờ
Phất phơ ba chỏm, thò lò mũi xanh
Ngày sau thiên cổ lưu danh
Gồm thâu lục quốc, tung hoành tài trai
Một tay Trương Lộc tài bồi
Gọi là trả nghĩa giúp người tri âm,
Ở Tần vẫn nhớ Mai Lâm (831)
Trúc tiêu réo rắt, hồ cầm nỉ non
Bao giờ về được cô thôn,
Thăm mồ cha mẹ, cho tròn thân danh
Bao giờ sự nghiệp tác thành,
Vinh thê ấm tử, sử xanh chói ngời
Bao giờ đôi bóng chung đôi,
Lau khô nước mắt cho người chờ mong
Trăng khuya lơ lửng đầu song
Quỳnh Hoa chắc hẳn nhớ nhung bên trời
Nửa vầng trăng sáng chơi vơi (841)
Nửa vầng kia đã khuất vời ngàn dâu
Trời làm dâu bể, bể dâu
Cạn dòng nước mắt, âu sầu trông trăng
Hồn nương mây ấm mấy tầng
Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi
Trời cao có xuống làm người,
May ra biết xót thương đời biệt ly !


Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 28.04.2009 01:28:39
0
GIẢN CHÚ đoạn 8, trang 40-44
PHẠM THƯ SANG TẦN


1-Nhiếp chính : Tạm nắm quyền chính, xử lý mọi việc trong
triều đình thay cho vua còn nhỏ tuổi
2-Nghịch thiên : làm trái ngược lại lẽ trời (Ý nói : Nhương hầu Ngụy Nhiễm là bề tôi nhưng lại lấn quyền, hiếp vua)
3-Tam đầu : Chế độ chính trị do 3 người đứng đầu bộ máy nhà nước, có quyền hành ngang nhau.
4-Hình nhân : Hình người cắt bằng giấy, để phục vụ cho việc cúng bái diệt yêu trừ ma, đặc biệt là khi cúng cô hồn tháng bảy. Ý chỉ người không có sự sống thật sự, không có quyền hành.
5-Quyền rơm : Tục ngữ “Quyền rơm, vạ đá”, quyền hành thì mỏng manh, nhẹ, yếu như cọng rơm; còn tội vạ, trách nhiệm thì nặng như đá tảng.
6-Cáo cầy : Cáo chồn, chó hoang. Chỉ loại người sống theo bản năng, thấy lợi là chụp giật, tranh giành, cấu xé lẫn nhau.
7-Xương khô trong mả : Ý nói những con người sống mà như đã chết, khô mục, rệu rã, không có sức sống.
8-Thằng hề : Kẻ chuyên mua vui cho người khác.
9-Con rối : Người hoặc vật giả, cử động được là do kẻ khác giật dây.
10-Người rơm, bù nhìn : Hình người bằng rơm, đặt ở ruộng rẫy nhằm mục đích xua đuổi chim chóc, không cho phá lúa hoặc hoa màu sắp đến kỳ thu họach.
11-Thuật số : Thuật bói toán.
12-Thần nhãn : Mắt thần. Theo truyền thuyết, trên thiên đình có 2 vị thần, là “Thiên Lý Nhãn”, và “Thuận Phong Nhĩ”. Một người có mắt thần có thể nhìn thấy việc xảy ra cách xa ngàn dặm. Một người có tai thần, có thể đón luồng gió mà nghe được chuyện cách xa ngàn dặm.
13-Đạo binh gia : Phép cầm quân, thuật dùng binh.
14-Quán triệt : Hiểu rõ đến tận cội rễ, ngọn nguồn.
15-Địa lý : Hiểu thấu hình thế đất đai, chỗ nào có thể dàn trận, chỗ nào có thể phục binh, đâu là địa lợi, đâu là tử địa, hiểm địa, để phục vụ cho việc dùng binh.
16-Thiên thời : Xem thiên tượng (gió, mây, trăng, sao) mà biết trước được thời tiết
17-Nhân tâm : Hiểu được lòng dân theo ai, chống ai. Hiểu được ý dân muốn gì, cần gì ...
18-Lược thao : Tài năng, mưu trí trong hành quân, đánh trận
19-Cơ số : Các thuật toán, áp dụng vào việc tổ chức quân đội, sao cho các cánh quân phối hợp chính xác được với nhau.
20-Lục nhâm : Thuật bói toán dựa trên “Dịch lý” của vua Phục Hy (bói Tiên Thiên) và Chu Văn Vương (bói Hậu Thiên) để lại, có thể đoán biết được cả quá khứ, lẫn vị lai.
21-Nội tình liệt quốc : Những chuyện thầm kín, bí mật, thâm cung bí sử của các nước.
22-Giải phân : Giải thích và phân tích một vấn đề nào đó, giúp cho người khác có thể dễ dàng hiểu được.
23-Hổ huyệt : Hang cọp, cũng như “Long đàm” (đầm rồng), là những từ để chỉ các nơi nguy hiểm, dễ đến nhưng khó về, sa vào những nơi ấy khó lòng mà toàn mạng.
24-Tiền hô hậu ủng : Kẻ trước hét dọn đường, kẻ sau ủng hộ.
25-Khách tướng : Tướng vốn xuất thân từ nước khác, không phải là người bản xứ
26-Long nhan : Mặt rồng, tức là “Vua”.
27-Tiểu tâm nhiễu sự : Kẻ có lòng nhỏ nhen, hay gây ra lắm việc rắc rối, gây khó dễ cho người khác.
28-Loan xa : Xe trang trí hình chim loan, chim phượng.
29-Biện sĩ : Kẻ giỏi tài miệng lưỡi, giỏi tranh luận.
30-Mồm loa mép giải : Như “Mồm năm miệng mười”, nghĩa là nói nhiều, nói lắm, hay đặt bày ra nhiều chuyện.
31-Kế xảo : Mưu kế tinh xảo, khéo léo lừa người mắc vào bẫy.
32-Cuồng đồ : Kẻ vừa ngu ngốc vừa cuồng ngông, làm bậy, nói bừa không cần biết gì đến lẽ phải.
33-Ngoại chủng : Kẻ thuộc về chủng tộc khác, không phải là người bản xứ.
34-Bái sư : Vái lạy ai đó, để nhận người ấy làm thầy.
35-Thiên cổ lưu danh : Để lại tiếng tốt đến muôn đời.
36-Tung hoành : (Vẫy vùng) Ngang dọc
37-Tài bồi : Vun đắp cho ai nên người.
38-Người tri âm : Xuất xứ từ điển tích “Bá Nha, Tử Kỳ”. Bá Nha giỏi nghề gảy đàn, Chung Tử Kỳ lại có tài nghe tiếng đàn mà hiểu được tâm sự của Bá Nha.
-“Tri âm” nghĩa là “nghe tiếng đàn hiểu được tâm sự”.
Nghĩa rộng : Người tri âm là người bạn tốt có khả năng hiểu rõ nỗi lòng thầm kín của mình, và cũng sẵn sàng chia sẻ buồn vui với mình.
-“Tri kỷ” (từ tương tự) nghĩa là “hiểu mình”.
39-Trúc tiêu : Sáo trúc.
40-Hồ cầm : Đàn tỳ bà.
41-Cô thôn : Xóm làng nhỏ bé, cô quạnh, vắng vẻ.
42-Sự nghiệp tác thành : Hoàn thành được sự nghiệp.
43-Vinh thê ấm tử : Làm vẻ vang cho vợ, giúp cho con được “tập ấm” (nối chức của cha khi cha chết).
44-Khuất vời : Khuất dạng ở mãi tận nơi xa vời vợi.
45-Dâu bể, bể dâu : Cũng như “Tang thương” là các từ tắt do câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh hóa thành ruộng dâu) mà ra. Các từ này đều có ý nói “việc đời thay đổi”, mới vừa là bể, thoắt đã thành ruộng dâu.
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 29.04.2009 08:52:56
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Hồn nương mây ấm mấy tầng
Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi
Trời cao có xuống làm người,
May ra biết xót thương đời biệt ly !


-9-

TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG



Nói về yếu địa Tây Kỳ
Ấp phong vạn hộ thuộc về Tần Doanh
Nối đời cho đến Chu Bình (851)
Có công, vua thưởng hai thành Kỳ, Phong
Dần dà thôn tính Tây Nhung
Tần Mục nhân nghĩa võ công hơn đời
Nhìn xa, trông rộng, yêu người,
Lưu danh Ngũ bá chói ngời Xuân thu
Tin dùng Ngũ cổ đại phu
Dân giàu nước mạnh, cơ đồ thênh thang
Hiếu công sự nghiệp vẻ vang
Nghe lời Vệ Ưởng, theo đàng Pháp gia
Quân lương vũ khí hằng hà
Giáp binh cường tráng, chiến xa chật đường
Đời ba mươi mốt xưng vương
Vây Tề, đánh Sở, mở mang cõi bờ
Huệ Văn vương giỏi quân cơ (861)
Thanh gươm yên ngựa, cướp cờ lập công
Gồm thâu Ba quận, Thục trung
Vua tôi lục quốc hãi hùng thiên oai
Con là Tần Vũ nối ngôi
Muốn xem cửu đỉnh, dạo chơi Lạc thành
Trẻ người hiếu thắng ham danh
Cậy tài ỷ mạnh gây thành vạ to
Đỉnh rơi dập nát chân vua
Vũ vương phút chốc giã từ nhân gian
Chiêu Tương năm tuổi đăng đàn (871)
Thay anh cai quản giang san nước Tần
Tuyên thái hậu, Hoa Dương quân
Nhương hầu Ngụy Nhiễm định phần triều cương
Trải ba mươi sáu năm trường
Tam đầu nhiếp chính, Tần vương bù nhìn
Định tâm cải cách lắm phen
Trong ngoài cô lập, buông rèm giả ngơ
Cung vàng điện bạc hững hờ
Rượu ngon thịt béo thẫn thờ, buồn thay
Hiền tài như lá thu bay (881)
Lấy ai báo quốc dựng xây miếu đường
Hình thành cơ nghiệp bá vương
Tung hoành phỉ chí, bốn phương cúi đầu
Khi thiết yến, lúc khai chầu
Bá quan vạn tuế, chư hầu tung hô
Chạnh nhìn một lũ ngây ngô
Tham danh hám lợi, chực chờ bon chen
Tâm tư nặng trĩu ưu phiền
Nước non nặng trĩu sầu riêng một mình
Vương Kê vào trước sân đình (891)
Chi li thuật rõ nội tình Ngụy đô
Dâng lên dăm bức dư đồ
Nói lời tiến dẫn giúp cho hiền thần
-“Người này đáng mặt thần nhân
Tài kiêm văn võ, quỉ thần cũng thua
Hiền tài bậc nhất bây giờ
Pháp binh thông tỏ, thi thư am tường
Thật lòng muốn giúp đại vương
Xin cho kiến giá, bàn phương yên Tần”
Tần vương mải nghĩ xa gần (901)
Một phần nghe lọt, chín phần buông trôi
Hững hờ, không hỏi một lời
Cho làm Tân khách, tạm thời lưu dung,
Bao giờ lập được đại công
Bấy giờ sẽ liệu sắc phong công hầu !
Vương Kê lặng lẽ lui mau
Mặt dài thườn thượt, dạ sầu mênh mang
Đường mây tưởng đã thênh thang
Xăm xăm rời Ngụy, xênh xang về Tần
Ngỡ rằng được gặp thánh quân (911)
Phò vua, giúp nước, an dân, cứu đời
Giúp người, giúp chẳng đến nơi
Vô phương, đành phải liệu bài hoãn binh
Trước sau đối đãi chân thành
Một lòng cung kính, hết tình tri âm
Bàn cờ, cuộc rượu, ca ngâm
Trúc tiêu tiêu muộn, hồ cầm giải khuây
Hồn nương nơi cánh rừng mai
Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau
Lững lờ nước chảy về đâu ? (921)
Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh

Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 29.04.2009 08:54:36
0
GIẢN CHÚ đoạn 9, trang 44-46
TẦN CHIÊU TƯƠNG VƯƠNG


1-Yếu địa : Vùng đất quan trọng về mặt chiến lược
2-Tây Kỳ : Vùng đất phía Tây, Tây Bắc Trung quốc, bao gồm các xứ Lũng Tây, Cam Túc, Tứ Xuyên, Hán Trung, Ba Quận. Vùng đất Tây Kỳ này núi sông vô cùng hiểm trở, nhưng đất đai lại phì nhiêu, dân cư đông đúc mà dũng mãnh. Phía Nam thông với Kinh Châu, Tương Dương, phía Bắc là rợ Khuyển Nhung, Hung Nô, sườn phía Đông của giải đất này được che chở bởi núi non trùng điệp, thông với Trung Nguyên (Tam Tấn : Triệu,
Hàn, Ngụy) bằng cửa ải Hàm Cốc, vùng đất Hồ Quan, nhìn ra Tam Xuyên, Đồng Quan, Lạc Dương. Trong lịch sử phân tranh của Trung quốc, có thể nói lực lượng nào khống chế được giải đất Tây Kỳ này đều dễ dàng thành công trong việc thống nhất thiên hạ. Chu Vũ vương(Cơ Phát), Tần Thủy hoàng (Doanh Chính), Hán Cao tổ (Lưu Bang) đều khởi từ Tây Kỳ mà dựng nên nghiệp Đế. Trong thời Tam Quốc (sau Đông Hán), Hán Chiêu Liệt hoàng đế (Lưu Bị) tuy thế lực rất non yếu, nhưng nhờ khống chế được Ba Thục và một phần đất Lũng, cũng đủ để “chia ba thiên hạ” cùng Ngô, Ngụy.
3-Tần Doanh : Nước Tần vốn được vua Tây Chu phong cho họ Doanh, họ ấy vì thế cũng được gọi là họ Tần Doanh
4-Tây Nhung : tức người Khương,Tây Khương, ở giáp giới với Lũng Tây, một tộc người thiểu số thường bị gọi một cách khinh miệt là rợ Khuyển Nhung. Dân ít, nhưng vô cùng dũng mãnh, can đảm. Thường xuyên uy hiếp nhà Tây Chu, sau bị Tần thôn tính dần dần.
5-Tần Mục công : tên là Nhâm Hiếu, vua thứ 13 của nước Tần, trị vì 39 năm (659-621tr.CN) là một trong Xuân thu Ngũ bá.
6-Ngũ cổ đại phu : tức Bá Lý Hề (xem chú thích ở đoạn 5)
7-Tần Hiếu công : tên là Cừ Lương, vua thứ 30 của nước Tần trị vì 24 năm (361-338 tr.CN), cũng là vị vua Tần cuối cùng xưng tước “Công”.
8-Vệ Ưởng : tên là Công Tôn Ưởng, người nước Vệ (nên được gọi là Vệ Ưởng), sau giúp Tần có công lớn được phong tước ở đất Thương (nên cũng còn được gọi là Thương quân, Thương Ưởng). Vệ Ưởng vốn là một trong số các nhân tài kiệt xuất thời Chiến quốc, làm Thừa tướng nước Tần đời Tần Hiếu công, thực hiện đường lối chính trị của Pháp gia, thi hành Bá đạo (đạo làm bá chủ) giúp Tần trở thành một cường quốc. Cuối đời, bị hành hình “Xa liệt” (Năm chiếc xe phanh thây).
9-Pháp gia : Một trường phái triết học, chính trị học thời Xuân thu, do Hàn Phi tử xướng xuất, chủ trương thiết lập cách cai trị chuyên chế ở trong nước, dựa trên những hình phạt nghiêm khắc của luật pháp, để mau chóng làm cho dân giàu nước mạnh, tiến tới đánh đổ các chư hầu (vốn là các chế độ quân chủ phong kiến mà đất đai và quyền lực bị xé vụn bởi các lãnh chúa địa phương), mục đích thiết lập một nền quân chủ chuyên chế tập quyền, trong đó quyền lực tập trung về một nhà nước trung ương, thành lập ra tỉnh, thành, quận, huyện; xóa bỏ hoàn toàn các chư hầu.
Biện pháp thực hiện của Pháp gia là “Bá đạo” (đạo làm bá chủ : dựa trên sức mạnh, chuyên chế, hình phạt, đánh đổ hẳn cái cũ sai sót, thay bằng cái mới tích cực hơn), đối lập với “Vương đạo” (dựa trên nhân nghĩa, thuyết phục, giáo dục, kiên trì sửa sai, chỉnh lý cái xã hội cũ chưa tốt thành cái tốt hơn) của Nho gia.
Các đại diện xuất sắc của phái Pháp gia gồm có Vệ Ưởng, Lý Tư ... Cả hai đều là Thừa tướng nước Tần, góp công lớn khiến Tần trở nên cường thịnh. Chính Lý Tư sau này đã giúp Tần Thủy hoàng thống nhất Trung quốc, lập nên Đế chế Tần.
10-Hằng hà : (hằng hà sa số) nhiều, rất nhiều (nhiều như số cát ở sông Hằng).
11-Giáp binh : quân mặc áo giáp
-Chiến xa : Xe trận, bằng gỗ được bọc sắt, do trâu hoặc ngựa kéo. Thường chở theo quân cung thủ hoặc quân xung kích tinh nhuệ. Chiến xa là một lực lượng vừa mạnh vừa cơ động, rất quan trọng trong chiến tranh thời cổ đại.
12-Tần Huệ Văn vương : tên là Tứ, con Tần Hiếu công. Đây là vị vua thứ 31 nhà Tần, người đầu tiên xưng “Vương”, vua này võ công thao lược đều hơn người, luôn năm gây hấn đánh phá lục quốc. Hai anh em Tần Vũ vương và Tần Chiêu Tương vương đều là con của vua này.
13-Ba quận : ở phía Nam đất Thục. Thục trung là tên gọi chung chỉ Thục quận và Hán Trung gộp lại, thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Đất Ba Thục này vô cùng hiểm trở.
14-Tần Vũ vương : Tên là Đãng, con trai Tần Huệ Văn vương, anh ruột Tần Chiêu Tương vương. Vũ vương là một vị vua trẻ, dũng cảm, nhưng hiếu thắng, do “cử đỉnh” tranh hơn thua với bọn thuộc hạ là Nhâm Bỉ, Ô Hoạch, bị tuột tay, đỉnh nặng ngàn cân rơi xuống đè dập nát đôi chân. Em là Chiêu Tương vương
lên nối ngôi lúc mới 5 tuổi
15-Cửu đỉnh : 9 cái đỉnh đồng (lư đồng) lớn, do nhà Chu sai đúc bằng đồng đen. Cửu đỉnh tượng trưng cho chín châu lớn trong cả nước, nhà Chu sở hữu cửu đỉnh là nắm giữ biểu tượng cai trị cả thiên hạ gồm 9 châu thời ấy.
16-Lạc thành : thành Lạc Dương, kinh đô của nhà Đông Chu.
17-Tần Chiêu Tương vương : gọi tắt là Tần Chiêu vương, tên Tắc, em ruột Tần Vũ vương. Lên làm vua lúc 5 tuổi, trải qua 36 năm chỉ là hư vị. Sau khi bãi chức Nhương hầu, trọng dụng Phạm Thư, mới lấy lại được thực quyền. Đời vua này để lại nhiều công nghiệp lớn lao, các chiến công cũng vô cùng hiển hách, tạo tiền đề thuận lợi cho Tần Thủy hoàng (cháu gọi Chiêu Tương vương là ông cố) gồm thâu lục quốc sau này.
18-Tuyên thái hậu : Vợ vua Huệ Văn vương, mẹ của Vũ vương và Chiêu Tương vương, nhiếp chính suốt 36 năm trường. Quyền bính trong thời kỳ này được Tuyên thái hậu phân bổ cho 4 người là : Nhương hầu, Hoa Dương quân (2 người em), Kinh Dương quân, Cao Lăng quân (2 người con khác của thái hậu, em Chiêu Tương vương).
19-Hoa Dương quân : tên là Thiên Nhung, em cùng cha với Tuyên thái hậu
20-Nhương hầu Ngụy Nhiễm : Em cùng mẹ với Tuyên thái hậu, làm thừa tướng nước Tần suốt thời gian Chiêu Tương vương còn nhỏ. Sau bị Phạm Thư lấy mất quyền chức.
21-Kiến giá : Gặp vua.
22-Tân khách : Chức quan dành cho người nước khác đến giúp việc cho Tần.
23-Lưu dung : Cho phép ở lại nước Tần, chờ cơ hội lập công giúp nước.
24-Đường mây : đường công danh.
25-Vô phương : hết cách, chẳng còn cách nào khác.
26-Hoãn binh : Kéo dài thời gian, chờ cơ hội tốt hơn
27-Vô vọng : Hết hy vọng, không có triển vọng gì.
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 30.04.2009 06:52:18
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Hồn nương nơi cánh rừng mai
Bâng khuâng mơ tưởng những ngày bên nhau
Lững lờ nước chảy về đâu ? (921)
Dòng đời vô vọng, biển sầu mông mênh


-10-

PHẠM THƯ BIỂU



Tây Tần từng trải việc binh
Tướng hay quân giỏi, tráng đinh can trường
Vui câu túy ngọa sa trường
Bọc thây da ngựa, bốn phương danh truyền
Đông bình Triệu, Bắc phá Yên
Vây Tề, hãm Sở, đảo điên Ngụy Hàn
Khắp nơi trắng xóa khăn tang
Xương phơi chật núi, máu loang ngập đồng
Mặc cho tướng sĩ trận vong (931)
Miễn sao đại tướng nên công muôn đời
Tướng Tần Bạch Khởi thiên tài
Hồ Thương, Vương Hạt đồng thời vang danh
Người trung dũng, kẻ hùng anh
Tiếp tay, chắp cánh, thêm nanh Nhương hầu
Lục quốc in dấu vó câu
Chiến công hiển hách, khô lâu bạt ngàn
Bạch Khởi nhận tước Võ An
Tướng quân, tướng quốc uy càng thêm uy
Nương nhau kẻ xướng người tùy (941)
Nhất hô bá ứng, kể gì Tần vương
Cường thần khuynh đảo miếu đường
Triều trung lấn át, biên cương lộng hành
Tiếng đồn lan khắp kinh thành
Nhương hầu chuẩn bị tuyển binh đánh Tề
Giáo gươm, cờ xí, ngựa xe
Trấn biên nhộn nhịp, kinh kỳ xôn xao
Quyết tâm mở rộng đất Đào
Chiếm vùng Cương Thọ nhập vào đất Nhương
Dựng xây nền móng kỷ cương (951)
Gặp thời thoán vị, làm vương nước Tần
Giả như nước ngập đến chân
Lui về xứ ấy, yên thân chư hầu !
Chị em Tuyên hậu đồng mưu
Chiêu vương biết ý, bạc đầu vì lo
An Bình, Trương Lộc bấy giờ
Suốt năm trông ngóng, đợi chờ mỏi mê
Nghe tin Tần sắp đánh Tề
Biết rằng cơ hội đã kề một bên
Vội vàng viết biểu dâng lên (961)
Nhờ quan yết giả trước đền dâng vua :
-“Trộm nghe : Minh chúa thuở xưa
Công to thì thưởng, tài sơ chẳng dùng
Khó nhọc, bổng lộc trả công
Lập nhiều chiến tích, tước phong công hầu
Trị dân giỏi, chức quan cao
Khiến nên ẩn sĩ đua nhau giúp đời
Lời hèn nếu chẳng đơn sai
Kíp cho áp dụng, chớ bài ngoại nhân
Giả như minh chúa phân vân (971)
Thân này ở lại nước Tần mà chi
Cấp cho một ngựa một xe
Hồ Quan thần sẽ liệu bề giong cương
Xưa nay vua chúa tầm thường
Xa người trung nghĩa, gần phường tiểu nhân
Hiền vương, thánh chúa cao minh
Thưởng công phạt tội công bình, uy nghiêm
Khách khanh Trương Lộc tài hèn
Sức không chịu nổi một phen búa rìu
Có đâu liều mạng nói điêu (981)
Để mà chuốc lấy những điều lụy thân
Chẳng qua chí muốn hưng Tần
Gối sương nằm tuyết đã gần một năm
Hạn hán trông đợi mưa dầm
Ngu dân trông đợi thánh tâm sớm chiều
Phải chăng kẻ nịnh thì yêu
Lời người trung trực bỏ liều không nghe ?
Hay vì yết giả Vương Kê
Chức quan hèn mọn khó bề tiến nhân ?
Khiến nên bệ hạ khinh thần (991)
Chẳng cho gặp mặt, chẳng cần mưu hay ?
Những điều sâu sắc ngày nay
Dám đâu liều lĩnh vung tay viết bừa ?
Trung ngôn nếu hợp ý vua
Kế hay bớt chút thì giờ nghe qua
Giả như nghịch nhĩ sai ngoa
Thân này cam chịu làm ma không đầu
Nêu gương hậu thế về sau :
Trung thần nghĩa sĩ chớ vào Hàm Dương !”
Tần vương đọc hết tấu chương (1001)
Tin thì tin vậy, nghi dường còn nghi
Truyền cho yết giả Vương Kê
Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời
Ly cung chuẩn bị chúc bôi
Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao.


Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 01.05.2009 07:34:06
0
Giản chú đoạn 10
PHẠM THƯ BIỂU
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 01.05.2009 07:38:47
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Truyền cho yết giả Vương Kê
Lắp yên, thắng ngựa, đánh xe đi mời
Ly cung chuẩn bị chúc bôi
Thử xem thuyết khách vẽ vời ra sao.


-11-

KIẾN GIÁ TẦN VƯƠNG



Hoạn quan giữ cửa truyền rao
-“Ai là Trương Lộc mau vào gặp vua .”
Trương Lộc khi ấy giả vờ :
-“Thuở nay chỉ biết Tần thờ ba ngôi
Ngai vàng bỏ trống lâu rồi (1011)
Vua nào nay lại cho vời đến ta ?”
Dứt lời, xộc thẳng vào tòa
Cận thần, hoạn giả thảy là thất kinh
Tấu trình mọi lẽ đinh ninh
Tưởng vua nổi trận lôi đình mau mau
Nào ngờ trúng chỗ thương đau
Trái tim rỉ máu, nghẹn ngào, băn khoăn
Truyền cho đuổi hết thị thần
Bên thềm cung kính, trước sân cúi đầu
Nội cung trân trọng rước vào (1021)
Đãi như thượng khách, thỉnh cầu cần vương
Quì ngay bên gối họ Trương
Lắng tai chăm chút lời vàng hiền nhân
Đáp lời :-“Dạ ! Dạ !” ba lần
Trước sau chẳng vội tỏ phân can tràng
Vua Tần lệ nhỏ hai hàng :
-“Nước nhà bất hạnh, quả vương vô tài
Tiên sinh nay đã đến đây
Sao không dạy bảo, giãi bày thiệt hơn
Phải chăng vì trẫm đức non (1031)
Tiên sinh không luận mất còn thấp cao ?”
Lộc rằng :-“Chẳng phải thế đâu !
Ba lần vua hỏi, lẽ nào không thưa
Chẳng qua đang lúc thẫn thờ
Tin nghi chưa rõ, thân sơ chưa tường
Tỷ Can, Cơ Tử đời Thương
Đều là tôn thất, họ hàng cùng vua
Kể thân, thân mấy cho vừa
Vua không tin cậy, mưu đồ uổng công
Trụ vương tất phải bại vong (1041)
Thành Thang cơ nghiệp bỗng dưng tan tành
Văn vương thấu lý đạt tình
Dẫu sơ nhưng vẫn trọn tin hiền tài
Thực thi kế lạ mưu hay
Trao quyền Khương Thượng đổi thay đất trời
Dựng nên cơ nghiệp ngàn đời
Chuyện xưa còn đó chói ngời sử xanh
Sơ thân chẳng giúp việc thành
Tồn vong chỉ một chữ tin hay ngờ
Thần là khách lạ tình sơ (1051)
Dầm sương dãi tuyết chực chờ gian truân
Kể thân, chẳng có chi thân
Kể tin, tin được ba phần hay không ?
Nói ra đại kế hưng vong
Phạm vào cốt nhục, vương vòng sát thân
Nghẹn lời, mà dạ băn khoăn
Tin nghi hai lẽ, phân vân ngỡ ngàng”
Vua rằng :-“Đá biết tuổi vàng,
Tạ hoàng thiên, giúp an bang cứu đời
Quả nhân một mực theo lời (1061)
Trên thời thái hậu, dưới thời quan khanh
Tiên sinh cứ việc tấu trình
Sơ thân chớ ngại trọng khinh thói thường
Trẫm dù chẳng phải hiền vương
Biết phân cao thấp, hiểu tường trước sau
Bao nhiêu kế lạ mưu sâu
Quả nhân bái gối cúi đầu xin nghe”
Lộc rằng :-“Bá nghiệp gần kề
Đại thần vụng tính, khó bề nên công
E rằng cơ nghiệp tổ tông (1071)
Về tay người khác, chỉ trong sớm chiều !”
Mồ hôi tuôn đẫm hoàng bào :
-“Tiên sinh nói rõ trước sau trẫm tường”
Lộc rằng :-“Mưu sự bá vương
Sâu rễ bền gốc, hùng cường tại dân
Dần dà thôn tính nước gần
Như sâu cuốn chiếu, như tằm ăn dâu
Nước xa tìm cách kết giao
Ấy là kế lớn, lẽ nào nghịch thiên
Nhương hầu, Bạch Khởi đảo điên (1081)
Rõ ràng chỉ biết lợi riêng cho mình
Người hám lợi, kẻ tham danh,
Của kho khánh tận, sinh linh điêu tàn
Đó đây vang tiếng khóc than
Cô nhi quả phụ khăn tang khắp trời
Khô lâu vương vãi nơi nơi
Bao năm chinh chiến, đất trời ủ ê
Cuối cùng Tần được tiếng chê
Hồ Quan cô quạnh trông về Hàm Dương
Hào Sơn còn đó núi xương (1091)
Co mình Hàm Cốc, bá vương nỗi gì ?
Bây giờ lại chực đánh Tề
Nhương hầu thắng trận thêm bề vinh hoa
Thất cơ, tội đến cả nhà
Tặc thần nghịch đảng hẳn là phế vua
Miếu đường Tần quốc bấy giờ
Người dưng khác họ chực chờ lên ngôi !
Ngày nay đại thể rõ rồi
Nếu không tính trước, ngậm ngùi về sau
Ngự lâm củng cố cho mau (1101)
Kế là hạ lệnh Nhương hầu triệt quân
Một bầy gian đảng nịnh thần
Bấy giờ khép tội khi quân thải hồi
Chỉ e vua chẳng dùng tôi
Để cho phản tặc kịp thời ra tay !”
Vua nghe như lửa cháy mày :
-“Tiếc rằng không có nhân tài theo ta
Nội cung ngoại trấn gần xa
Toàn là phe đảng Nhương, Hoa lộng hành”
Lộc rằng :-“Thị vệ, Cấm binh (1111)
Hãy giao cho Trịnh An Bình chỉ huy
Người này ở Ngụy theo về
Nên trang nghĩa dũng, giỏi nghề kiếm cung
Thân cao vóc lớn chí hùng
Tiếng rền như sấm, oai phong hơn người
Anh em kết nghĩa lâu rồi
Đói no chia sớt, sẻ đôi lạnh lùng
Giao cho bảo vệ cấm cung
Ngự lâm quân tất một lòng phò vua
Bấy giờ liệu gió phất cờ (1121)
Bãi quan Ngụy Nhiễm chớ cho đánh Tề”
Vua Tần một dạ tin nghe
An Bình nhận chức Chỉ huy Cấm thành
Trương Lộc ẩn giữa quân doanh
Cơ nào đội nấy giáp binh rỡ ràng
Ngày ngày thao luyện chỉnh trang
Đợi khi hữu sự sẵn sàng ra tay
Thần long giam hãm lâu ngày
Thoát nơi giếng cạn, lên mây vẫy vùng
Tần vương ở miết cấm cung (1131)
Giả mê nữ sắc, tiệc tùng vui say
Dừng có mạch, vách có tai
Mọi bề cẩn trọng, chẳng ai nghi ngờ


Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3 

HanSiNguyen
  • Số bài : 1246
  • Điểm: 4
  • Điểm thưởng : 0
  • Từ: 27.04.2008
  • Nơi: 3rd Planet
RE: Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ - 03.05.2009 15:36:08
0
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Tần vương ở miết cấm cung (1131)
Giả mê nữ sắc, tiệc tùng vui say
Dừng có mạch, vách có tai
Mọi bề cẩn trọng, chẳng ai nghi ngờ


-12-

AN BÌNH BẮT NGỤY XÚ PHU



An Bình bảo vệ cung vua
Canh phòng nghiêm ngặt, bất ngờ dò ra
Xú Phu họ Ngụy lân la
Luông tuồng nội thất, la cà tẩm cung
Bảnh trai mặt trắng môi hồng
Khiến Tuyên thái hậu đem lòng thương yêu
Trai tơ, gái góa cưng chiều (1141)
Kể chi phép nước, phạm điều nhân luân
Lục tuần bán dạ hồi xuân
Đong đưa đỉnh Giáp non Thần đong đưa
Mây mưa mặc sức mây mưa
Quản chi trát nhuốc bôi nhơ cung đình
Tình tang, dấm dúi tang tình
Bồng Lai rúc rích, rập rình Vu Sơn
Đào Nguyên lối cũ chưa mòn
Đường đường nhiếp chính hỏi còn sợ ai ?
Cặp kè đú đởn trên ngai (1151)
Du dương song tấu hết bài du dương !
An Bình mật báo Chiêu vương
Đùng đùng sấm nổ sét vang cung Tần :
-“Lệnh mau bắt kẻ gian nhân
Đem về cho trẫm đích thân lăng trì !”
Nực cười thay kẻ vô tri
Tưởng đâu lớn mật, ai dè bé gan
Đói ăn vụng, túng làm càn
Roi chưa kịp đánh, râm ran khóc oà
Dám đâu ong bướm vờn hoa (1161)
Chẳng qua dê cỏn oanh già kết đôi
Muôn năm để thế gian cười
Chút lòng ham hố, đi đời nhà ma !
Vua rằng :-“Tội khó dung tha,
Phải cho chém sạch cả nhà mới thôi,
Lơ đi, lửa giận khôn nguôi
Làm ra lớn chuyện, tiếng đời cười chê
Tiến lui bất tiện hai bề
Lại e thái hậu ngứa nghề không dung !”
Cho đòi Trương Lộc vào cung (1171)
Lộc rằng:-“Khó nỗi bít bùng, nhẩn nha
Việc này tất đã lan ra
Đến tai thái hậu khó mà yên thân
Khác nào nước đã đến chân
Mó hang rắn độc, nắn gân cọp già
Tổn thương đến kẻ bướm hoa
Ắt là thái hậu nổ ra tam bành
Giựt dây gian đảng hoành hành
Thế ta còn yếu khó giành phần hơn !
Chi bằng tạm nén căm hờn (1181)
Dùng ngay Ngụy tặc ra đòn mới cao
Gã này thái hậu thương yêu
Hẳn là vì gã, cam chiều ý ta
Triều trung buộc rút chân ra
Từ nay cung ngọc điện ngà rong chơi
Thuận lòng, ta sẽ giao người
Không ưng, ngọc đá đồng thời tan hoang
Ba ngoe gãy mất một càng
Lẽ nào còn sợ Hoa Dương, Nhương hầu ”
Vua khen kế ấy rất mầu (1191)
Giam ngay Ngụy tặc vào sau nội đình
Cắt người canh giữ nghiêm minh
Cho mời thái hậu tường trình đầu đuôi
Ván bài lật ngửa lên rồi
Khéo tay ràng buộc, liệu lời bao vây
Chơi dao, nắm cán mới hay
Chim sa vào rọ có bay đàng trời !
Thái hậu đành phải theo xuôi
Tự ra thánh chỉ, buông lơi quyền hành
Bãi ngôi, giáng chức Cao-Kinh (1201)
Triệt tiêu phe đảng, hậu đình nghỉ ngơi
Chỉ vì một món đồ chơi
Sao sao cũng phải cứu người mình thương
Giỏi thay mưu kế họ Trương
Uốn ba tấc lưỡi gãy càng gian nhân.
Hôm sau triệu tập quần thần
Trước thềm ngoài điện cấm quân sẵn sàng
“Cao Lăng cùng với Kinh Dương
Ngông nghênh cậy thế, vênh vang lộng quyền,
Chăm chăm thu vén của riêng (1211)
Nay cho bãi chức, tước quyền nhị quân
Hiền nhân Trương Lộc thay chân”
Lệnh Tuyên thái hậu bất thần ban ra
Quyền thần gian đảng xót xa
Cao, Kinh cúi mặt - Nhương, Hoa gục đầu
Nhìn nhau chưa hiểu vì sao,
Vua cho Trương Lộc đứng đầu khách khanh
Lẹ làng thâu tóm quyền binh
Vương Kê trợ lực, An Bình tiếp tay
Việc như sét đánh ngang mày (1221)
Gian nhân chẳng kịp trở tay vãn hồi

Hàn Sĩ Nguyên
Hàn Sĩ Nguyên
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần.
www.youtube.com/user/hsn2k3